Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh Lớp 1 rèn kĩ năng đọc tốt
Một số thuận lợi và khó khăn khi áp dụng Tiếng Việt Công nghệ giáo dục vào giảng dạy cho học sinh tiểu học như sau:
a. Thuận lợi
- Giáo viên dạy Tiếng Việt Công nghệ giáo dục luôn được sự quan tâm của
cấp trên, đặc biệt là Ban Giám hiệu nhà trường thường xuyên động viên, tạo mọi điều kiện để giáo viên an tâm công tác và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Đầu năm học phòng Giáo dục luôn tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề: tiếng Việt Công nghệ giáo dục cho toàn bộ giáo viên giảng dạy lớp 1 trên địa bàn huyện để cùng học tập, trao đổi kinh nghiệm, chia sẽ những phương pháp dạy tốt đặc biệt là trực tiếp dự giờ tiết dạy mẫu của những giáo viên dạy gỏi lớp 1. Đây là một thuận lợi rất lớn cho mỗi giáo viên nhằm học tập, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng vào giảng dạy tốt hơn.
- Giáo viên nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, có kinh nghiệm và năng lực chuyên môn.
- Giáo viên không phải soạn bài nên có thời gian để quan tâm đến học sinh nhiều hơn, để nghiên cứu tài liệu, để nắm quy trình dạy, cách tổ chức thực hiện lên lớp với học sinh.
- Tài liệu sách thiết kế chi tiết cho các dạng bài, các mẫu của từng tiết dạy.
- Đa số các em đa số rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ, động viên.
- Có thể nói học sinh rất yêu thích học Tiếng Việt Công nghệ giáo dục vì giáo viên phát huy được tính tích cực của học sinh, giờ học diễn ra sôi nỗi, hào hứng, học sinh nắm được cách phân tích cấu trúc ngữ âm, xác định được các âm trong một tiếng như: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối.Vì thế tiết học không gò bó, không có nhiều áp lực như trước. Đó chính là một lợi thế, giúp các em hứng thú hơn khi học, là động lực thức đẩy các em học tốt.
b. Khó khăn
- Năm học 2019- 2020, tôi được nhà trường phân công dạy lớp 1. Bởi lần đầu tiên tiếp xúc với một chương trình mới giáo viên lớp 1 trực tiếp đứng lớp như tôi rất băn khoăn lo lắng. Trong thực tế giảng dạy, giáo viên lớp 1 cũng đã gặp không ít lúng túng khi tất cả học sinh vào lớp 1 đa số chưa biết chữ mà nhìn vào nội dung sách Tiếng Việt CGD thì số lượng chữ trong mỗi tiết học rất nhiều lại yêu cầu học sinh phải đọc trơn các chữ đó sau khi học xong. Lần đầu tiên tiếp xúc với cách dạy theo CGD giáo viên chưa thành thạo với việc dạy các Việc trong mỗi tiết. Giáo viên phải nghiên cứu sách giáo khoa, đọc kĩ thiết kế, xem băng đĩa thật kĩ trước các mẫu bài rồi mới xâm nhập được bài dạy tốt.
- Dạy học theo phương pháp mới có những khó khăn nhất định, giáo viên mới tiếp cận nên còn nhiều bỡ ngỡ đòi hỏi giáo viên phải thực sự tìm tòi, chuẩn bị chu đáo, chủ động vận dụng linh hoạt vào từng bài học, nhằm thu hút sự tham gia tích cực của tất cả các em học sinh.
- Giáo viên phải có nhiều thời gian đầu tư vào tiết học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh.
- Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn những em thể chất yếu, bé nhỏ hơn so với bạn bình thường kèm theo đó là sự phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến.
- Bên cạnh đó học sinh trên địa bàn lại thuộc vùng khó khăn . Học sinh khối 1 trong trường có tới 17 em sống với ông bà già yếu nên rất khó khăn trong việc phối kết hợp cùng giáo viên rèn đọc cho con cháu, một số ông bà thì lại hướng dẫn sai cách phát âm, cách đánh vần nên các em loay hay giữa hai cách đọc khác nhau của cô và gia đình.
ưa chữ /x/ in thường ra gắn lên bảng và nói: Đây là chữ x in thường. Gồm nét xiên phải và một nét xiên trái cắt chéo lên nhau.. Giáo viên chỉ vào chữ x để học sinh đọc: x in thường (cá nhân, nhóm, tổ, lớp) Khi dạy xong phần giới thiệu chữ in thường tôi dùng chữ in thường đó gắn ngay một góc bảng. Mỗi ngày, trên tấm bìa được gắn thêm một chữ ghi âm mới. Cứ như vậy, vào 10 phút đầu giờ, ban học tập sẽ cho cả lớp ôn luyện đọc các âm giáo viên đã gắn lên bảng. Với cách đó giúp học sinh ghi nhớ mặt chữ và đọc tốt hơn. Ở Mẫu Âm, bài nào cũng vậy tôi đều luyện tập rất kĩ bước tìm tiếng mới (thay âm và thêm thanh để tìm tiếng mới). Mục đích của bước tìm tiếng mới là giúp học sinh có thêm vốn tiếng có chứa âm vừa học. Qua đó giúp các em đọc tốt hơn ở việc 3. Đối với bài dạy là phụ âm, bước tìm tiếng mới là thay âm chính bằng các nguyên âm đã học để có tiếng mới. Đối với bài dạy là nguyên âm, bước tìm tiếng mới là thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để có tiếng mới. Ví dụ: Dạy âm /o/ Khi học sinh đưa được tiếng /nho/ vào mô hình thì cần yêu cầu học sinh chỉ vào mô hình đọc: /nho/- /nhờ/ - /o/ - /nho/, phần đầu /nhờ/, phần vần /o/. Cách đọc như thế giúp học sinh khắc sâu âm vừa học, vị trí mỗi âm trong mô hình tiếng tách thành hai phần. Giáo viên lệnh: “Thay âm đầu bằng các phụ âm đã học để có tiếng mới.” Học sinh nối tiếp đọc các tiếng các em thay, giáo viên viết lên bảng ở Việc 1 (bo, co, cho, do, đo,), rồi chỉ cho các em đọc các tiếng mình vừa ghi lên bảng (cá nhân, nhóm, lớp). b. Về vần - Để học tốt phần vần thì cần nắm chắc các âm đã học. Ví dụ: Học vần: /ân/ học sinh cần biết: vần /ân/ gồm hai âm ghép lại, âm chính /â/, âm cuối /n/. - Phải nắm chắc việc phân tích tiếng, vị trí các âm trong mô hình. Ví dụ: /lân/ → / lờ/- /ân/ - /lân/. - Nắm chắc các mẫu vần đã học để khi đua tiếng vào mô hình không bị sai. Sang giai đoạn học vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen: nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững. Đồng thời các em cần nắm vững 4 mẫu vần: - Mẫu 1: Vần chỉ có âm chính: ba - Mẫu 2: Vần có ân đệm và âm chính: oa - Mẫu 3: Vần có âm chính và âm cuối: an - Mẫu 4: Vần có đủ âm đệm – âm chính – âm cuối: oan VD: Mẫu 2: Vần có ân đệm và âm chính: oa Bài: Vần /oe / học sinh cần nhận diện rõ vần /oe/ có âm đệm /o/ đứng trước, âm chính /e/ đứng sau. c. Nắm chắc cơ chế đánh vần - Các em còn nhầm lẫn với cách đánh vần cũ do nghe người thân trong gia đình đọc. Vì vậy giáo viên cần giúp các em nắm chắc cơ chế đánh vần với các bước: Bước 1: Tạm thời tách thanh ra để lại tiếng thanh ngang. Bước 2: Đọc tiếng thanh ngang. Bước 3: Trả lại thanh. Đọc trơn chữ ghi tiếng thanh ngang là cơ sở để đọc trơn chữ có các thanh. Nếu em nào quá chậm giáo viên hướng dẫn các em phân tích trên chữ quen gọi là đánh vần. Đánh vần theo cơ chế lưỡng phân (phân hai, tách hai, chia đôi). Ví dụ: 1. toán → /toan/- /sắc/ - /toán/. 2. toan → /tờ/-/oan/- /toan/ . 3. oan → /o/-an/- /oan/ . 4. an → /a/ - //n/ - /an/. Như vậy hướng dẫn học sinh đọc các tiếng mà các em còn quên theo cơ chế tách đôi: Tạm thời “bỏ” thanh ra (che đi) - đọc trơn tiếng thanh ngang. Trả lại thanh – đọc tiếng có thanh (nhìn chữ thanh ngang rồi “ lắp” thanh vào) Đọc cả 4 mức độ: To - nhỏ - nhẩm - thầm (đọc thầm - đọc bằng mắt) vì đọc cả 4 mức độ là quá trình chuyển từ ngoài vào trong giúp học sinh dễ dàng ghi nhớ nên giáo viên cần huấn luyện ngay từ đầu và làm quyết liệt. Mỗi khi học sinh đọc phân tích cần quản lý việc học của học sinh (Bằng miệng và bằng tay) giúp học sinh nhận biết từng phần của tiếng có thanh ngang và tiếng có thêm thanh. Ví dụ: Tiếng /cá/ các em không đọc được thì cho các em đánh vần ra: /cá/ → /ca/ - /sắc/ - /cá/. Nếu không đọc được nữa cho các em phân tích tiếng /ca/ → /cờ/ - /a/ - /ca/. Không đọc được nữa thì gợi mở cho các em nhớ lại các nét cơ bản cấu tạo nên /c/ và /a/. Nắm được cơ chế đó các em sẽ đọc được dù bất kể tiếng nào. 2.2.7. Xây dựng mối đoàn kết giữa học sinh với nhau. Mục đích: Giúp học sinh biết yêu thương, đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập và hoạt động đồng thời tạo động lực thi đua trong học tập. Biện pháp thực hiện: Giáo dục học sinh mối quan hệ mật thiết với nhau. Quan tâm giúp đỡ nhau trong học tập nhất là những em tiếp thu chậm, con gia đình nghèo, các em sống với ông bà. Xây dựng đôi bạn cùng tiến: Giáo viên cho học sinh học chậm, đọc chậm ngồi gần với một học sinh đọc tốt. Bạn đọc tốt sẽ giúp bạn chậm khi chỉ chữ đọc bài, giúp bạn đánh vần, đọc tiếng và giúp bạn trong thao tác vẽ mô hình, thay dấu thanh, tìm tiếng mới. Thời gian 10 phút đầu giờ luân phiên những học sinh có kĩ năng đọc tốt đọc cho cả lớp cùng ôn luyện bài. Sau đó lần lượt luân phiên các em trong lớp đọc bài, nếu bạn nào quên hoặc đọc sai thì bạn đọc tốt sẽ có nhiệm vụ phát hiện lỗi sai và giúp bạn đọc đúng. Khuyến khích những bạn đọc tốt nếu giúp được bạn đọc chậm tiến bộ sẽ nhận được phần thưởng. Chính việc làm này tạo sự đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau và có thói quen học tập tốt, xây dựng tốt nề nếp học tập. Ở nhà, tôi động viên các em trong cùng một xóm giúp đỡ lẫn nhau, cùng học, cùng chơi, cùng chia sẽ khó khăn trong học tập. 2.2.8. Xây dựng bầu không khí lớp học thân thiện, tạo hứng thú học tập. Mục đích:Tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng tạo. Học sinh cảm nhận được sự thoải mái khi việc học của mình vừa gắn với kiến thức trong sách vở, vừa thông qua sự trải nghiệm của chính bản thân trong các hoạt động tập thể. Biện pháp thực hiện: Để học sinh tự tin hơn khi đọc và trình bày ý kiến của mình thì rất cần một môi trường học tập thân thiện. Đó là: - Xây dựng bầu không khí học tập thân thiện. - Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn. - Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh ở mỗi địa phương, giúp các em tự tin trong học tập. - Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. - Tổ chức các hoạt động tập thể, vui tươi, lành mạnh. Đại đa số học sinh tiểu học, các em rất ngại tiếp xúc với thầy cô. Vậy làm thế nào để các em mạnh dạn hơn thì giáo viên phải gần gũi, thân tình để các em dễ hoà đồng vào môi trường tập thể. Nếu các em nhận ra ở thầy cô một sự bảo bọc che chở, nhất là sự quan tâm, cảm thông thực sự, các em sẽ dần dần quấn quýt, tin cậy gần như tuyệt đối và thầy cô như là thần tượng của các em. Để làm được điều này thì cách nói, âm vực lời nói là vô cùng quan trọng. Có nghĩa là giáo viên chỉ phát âm vừa đủ nghe, tránh quát tháo, lớn tiếng dễ gây tâm lý sợ học, sợ thầy cô cho học sinh. Giáo viên phải biết điều chỉnh, tạo không khí hào hứng trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ luật, trật tự. Cho phép các em trao đổi ý kiến, nhờ bạn bên cạnh trợ giúp nhưng giáo viên phải nhắc nhở những học sinh mải chơi, nói chuyện riêng không chú ý luyện đọc. 2.2.9. Sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức phát huy tính tích cực. Mục đích: Nhằm giúp học sinh hứng thú học tập, tạo một bầu không khí học tập vui chơi hết sức bổ ích để các em thể hiện hết, phát huy hết năng lực sẵn có của mình tránh rụt rè, thụ động, làm theo một cách máy móc. Biện pháp thực hiện: a. Phương pháp tổ chức trò chơi. Để cho các em ghi nhớ và khắc sâu kiến thức đã học, người giáo viên không chỉ nắm vững quy trình 4 việc trong sách thiết kế mà còn phải làm cho lớp học sôi nổi, học sinh thoải mái trong học tập. Chính vì điề đó giáo viên phải tạo ra những trò chơi học tập để làm cho không khí sôi nổi, tích cực đồng thời củng cố kĩ năng. Ví dụ: Khi dạy bài vần /ât/ tuần 12, giáo viên có thể sử dụng trò chơi “ Bắn tên” để cho học sinh tìm tiếng mới, mà lại giúp các em hứng thú học tập hơn. Luôn chú ý đến các em chưa mạnh dạn, tạo điề kiện để các em lần lượt được điều khiển trò chơi. Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần lưu ý: - Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh. Các em học nhưng phải vui, khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Giáo viên cần lưu ý cần lựa chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám ra nội dung bài học một cách chủ động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu sắc. Trò chơi có chứa đựng nội dung và có quy chế nhất định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội dung gắn liền với bài học. Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng say học tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những hoạt động học tập - Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học. - Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các em rèn kỹ năng hợp tác. Một số trò chơi có thể áp dụng như: đọc nhanh – đọc đúng; chỉ nhanh – chỉ đúng; đi chợ (lưu ý chợ chỉ bán nhứng đồ vật có chứa âm hoặc vần đang học) Ví dụ: trò chơi: Đọc nhanh – đọc đúng Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen: giỏi quá, giỏi quá. Tôi thường chọn những em đọc còn chậm đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng. Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các đội, không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là một biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen, được thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên những đội còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên cần nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết quả cuộc chơi giáo viên đánh gía cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên nêu yêu cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái, không chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận kết luận của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng bạn tham gia chơi. Tuy nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là chính, tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không thắng trò chơi. b. Phương pháp nhận xét nêu gương. Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò chuyện với các em học chậm để giúp các em cố gắng hơn cho kịp bằng bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn học tốt trong lớp. Ví dụ: Bạn Bảo, bạn Trọng học giỏi vì bạn ấy rất chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà. Ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc để ngày càng học tốt hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em sẽ học giỏi như các bạn ấy nếu cố gắng đọc nhiều như các bạn. Đọc chưa thông, đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế mà đọc mãi, đọc đi, đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi. Tôi đã cùng đọc với các em còn chậm nhằm giúp đỡ khả năng đọc bài cũng như giúp các em phân tích tiếng, cách đọc sao cho nhanh như: nhẩm âm đầu → nhẩm vần → ghép âm đầu với vần → ghép dấu thanh thành tiếng 2.2.10. Tăng cường nhận xét, đánh giá học sinh. Mục đích: Nhận biết được điểm mạnh, điểm yếu của học sinh để có biện pháp cải thiện, hoàn thiện phương thức dạy và học để phát triển năng lực của học sinh. Biện pháp thực hiện: Việc đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên. Nó không đơn thuần là thực hiện một quy định bắt buộc để giáo viên ghi nhận vào Sổ tay cá nhân mà dựa vào đó giúp giáo viên nắm được năng lực, khả năng phối hợp của từng học sinh, từ đó có kế hoạch tổ chức dạy - học phù hợp và hiệu quả. Mặt khác cần theo dõi, đánh giá học sinh trong suốt quá trình học tập. Giáo viên cần quan sát thái độ học tập, đánh giá sự tiến bộ của các em. Do đó việc nhận xét không nên qua loa, đại khái mà lời nhận xét cần ngắn gọn, dễ hiều mang tính đọng viên , khích lệ cao. Khi thực hiện việc đánh giá, giáo viên cần nêu rõ những mặt được và chưa được để học sinh nắm và thực hiện tốt hơn. Bên cạnh việc tuyên dương những học sinh tích cực, chăm chỉ, đọc tốt giáo viên cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những học sinh chưa tập trung, lơ là, hay nói chuyện, làm việc riêngđể các em có trách nhiệm và ý thức hơn. Có 4 mức độ đánh giá đối với quá trình chiếm lĩnh đối tượng của học sinh: - Mức 1: Làm được. - Mức 2: Làm đúng. - Mức 3: Làm đẹp. - Mức 4: Làm nhanh. Mức 1, 2 là yêu cầu cơ bản, tối thiểu cần đạt 100% học sinh. Mức 3, 4 thể hiện sự phân hoá học sinh rõ nét trong quá trình dạy học. Hiện tại việc đánh giá môn học được thực hiện theo thông tư 22, do đó đánh giá cần thường xuyên đúng thực chất, công bằng và khách quan. Nếu giáo viên chỉ dựa trên cơ sở là bài kiểm tra cuối kì, cuối năm của các em là chưa đủ, chưa chính xác, mà phải dựa trên nhiều yếu tố như: kĩ năng đọc, tham gia các hoạt động ở lớp, Chính vì vậy, giáo viên cần coi trọng khâu đánh giá toàn diện và xuyên suốt quá trình học tập. Kết quả sau áp dụng các giải pháp: Qua việc học tập theo chương trình Tiếng Việt 1 – CGD giúp cho học sinh có được sự tự tin, chững chạc khi nắm bắt kiến thức mới. Các em làm chủ được tiết học và hoạt động hết sức sôi nổi, biết thi đua đọc đọc đúng, đọc nhanh, đọc hay đặc biệt khi tìm tiếng mới các em thật sự hứng thú và thể hiện rõ năng lực cá nhân của mình không còn thụ động lắng nghe như khi học chương trình Tiếng Việt cũ. Các em ghi nhớ âm, vần tốt hơn, nhanh hơn vì các em được phân tích kĩ qua mô hình, qua tìm tiếng mới và kết hợp nghe viết không còn hiện tượng nhìn chép – bắt chước một cách thụ động như trước. Với việc định hướng học qua thực hành giúp học sinh hiểu khái niệm và có kĩ năng ngôn ngữ. Thông qua “chuỗi việc làm” trên lớp theo yêu cầu “thầy thiết kế, trò thi công” để rồi các em hình thành được kiến thức và rèn luyện kĩ năng đọc, viết. Sau một thời gian ngắn làm quen với môi trường học tập, với môn Tiếng Việt, tôi nhận thấy các em học sinh rất nhanh chóng quen, thực hiện theo đúng các kí hiệu, các động tác, tiếp thu bài tốt: đọc, phân tích, viết đều rất hiệu quả. Tôi tin tưởng rằng với những gì đang có, với sự nổ lực hết mình của mỗi một thầy cô, với tinh thần kỷ cương – tình thương và trách nhiệm thì sẽ có hướng đi đúng, tích cực hơn trong dạy Tiếng Việt cho học sinh theo chương trìnhCông nghệ Giáo dục và đem lại chất lượng cao nhất. Cụ thể kết quả như sau: TS HS Khảo sát lần 1 Thời gian: tháng 8/2019 Khảo sát lần 2 Thời gian: ngày 16/09/2019 34 em * Số học sinh còn chưa nhận diện được chữ cái: 5 em. * Số học sinh biết 6 -10 chữ cái: 10 em. * Số học sinh nhận biết hết bảng chữ cái:11 em * Số học sinh nhận biết hết các âm hai chữ cái: 8 em. * Số học sinh còn chưa nhận diện được chữ cái: 0 em. * Số học sinh biết 6 -10 chữ cái: 0 em. * Số học sinh nhận biết hết bảng chữ cái: 28 em. * Số học sinh nhận biết hết các âm hai chữ cái: 28em. Cuối học kỳ 1, năm học 2019-2020, bài kiểm tra môn Tiếng Việt của các em có kết quả như sau: Lớp 1B Số lượng HS Điểm (9-10) Điểm (7-8) Điểm (5-6) Điểm dưới 5 Môn SL % SL % SL % SL % Tiếng Việt 28 20 71,4 5 17,9 3 10,7 0 0.0 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài. Môn Tiếng Việt 1 – CGD thực sự đã có những đóng góp cơ bản vào công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam. Rất nhiều học sinh được học chương trình Tiếng Việt 1 – CGD, các em không chỉ đọc thông viết thạo, nắm chắc kiến thức ngữ âm, nắm chắc luật chính tả để rồi các em rất thích đến trường bởi ở đó các em cảm nhận được việc đi học là hạnh phúc và mỗi ngày đến trường náo nức những niềm vui. Nhưng để niềm vui, niềm hạnh phúc được nhân rộng và nở rộ thực sự thì đòi hỏi mỗi một giáo viên phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của các em để bồi dưỡng, luyện tập; phải thực sự tâm huyết với nghề, đầu tư nhiều thời gian cho việc nghiên cứu thiết kế bài giảng thật kĩ và phương pháp giảng dạy cụ thể cho từng đối tượng học sinh làm sao để có giờ dạy hay gây hứng thú học tập cho các em; phải thực sự linh hoạt, sang tạo trong giảng dạy. Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của mỗi thầy cô. Luôn ý thức rằng dạy học sinh phải tiến bộ. Sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Hãy cùng học, cùng đọc với các em ở mọi lúc, mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt cho qua khi các em đọc sai lỗi. Với mỗi học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kĩ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khóđể tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và là nền tảng vững bước để tiến dài trong tương lai. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất Với mong muốn là làm thế nào để áp dụng tốt nhất chương trình Tiếng Việt 1 – CGD trong giảng dạy, làm sao để các em có kĩ năng đọc tốt và giúp giáo viên tháo gỡ những khó khăn, tôi xin kiến nghị một số ý như sau: - Đối với trường: Thường xuyên cho giáo viên đi học hỏi, trao đổi cách dạy hay của các trường bạn trong cụm, huyện. Bố trí cho giáo viên khối lớp 1 có thời khoá biểu môn Tiếng Việt lệch nhau và có thời gian rảnh để giáo viên thường xuyên dự giờ chia sẽ ý kiến, kinh nghiệm cùng đồng nghiệp. - Đối với Phòng Giáo dục: Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề và bố trí giáo viên trực tiếp dạy môn Tiếng Việt 1 trong huyện tham gia giảng dạy luân phiên để các trường về dự và cùng nhau thống nhất cách dạy sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Cần tạo mọi điều kiện có thể cho các giáo viên trực tiếp dạy Tiếng Việt 1 có cơ hội nhiều nhất để học tập ở các trường ngoài huyện cũng đang thực hiện chương trình Tiếng Việt 1 - CGD. Tóm lại: dạy học là một nghệ thuật, không có phương pháp nào là tối ưu. Mỗi giáo viên có phương pháp giảng dạy riêng, nhưng dù thế nào đi chăng nữa cũng cần hiểu rằng: hãy để các em say mê đọc bài và cùng tham gia thi đua học tập để vui chơi để phát triển và lớn lên cùng cuộc sống của các em. Qua quá trình tìm hiểu, đúc kết kinh nghiệm bản thân tôi cũng chỉ với mong muốn được góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào sự nghiệp giáo dục chung. Có thể giải pháp nêu trên chưa phải là tối ưu nhưng đó chính là một cách cần thiết và dễ dàng áp dụng, giúp giáo viên thực hiện tốt hơn vai trò của mình khi giảng dạy môn Tiếng Việt 1 - CGD. Những vấn đề mà tôi đã nêu chắc chắn không tránh khỏi hạn chế và thiếu sót. Song đó là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy. Tôi rất mong được sự tham khảo, nhận xét, góp ý bổ sung của đồng nghiệp, của cấp trên để giải pháp này được hoàn thiện.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_lop_1_r.doc