Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh Lớp 1
Suốt chặng đường dài 5,6 năm trời nhờ sự giúp đỡ của người lớn, các chức năng tâm sinh lí của trẻ được hoàn thiện một cách tốt đẹp. Đó là cơ sở đầu tiên để đưa trẻ em hình thành và phát triển nhân cách con người để bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn lứa tuổi của học sinh lớp 1, ở lứa tuổi này các em tiếp tục diễn ra sự phát triển tâm sinh lí ở mức độ cao hơn về mặt tâm lí, khả năng tri giác của học sinh lớp 1 mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết, không mang tính chủ động. Trẻ em luôn hứng thú về một cái gì đó nhưng hứng thú biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Mỗi xúc động của các em lại kích thích đến cảm xuác và mỗi cảm xúc lại ảnh hưởng đến tri giác một cách khác nhau.
Một trong những lĩnh vực phát triển tri giác cho học sinh lớp 1 là tri giác thẩm mĩ với các tác phẩm nghệ thuật. Điểm mới trong tri giác của các em là xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc các em tham gia vào hoạt động kể chuyện và nghe kể cũng là một trong những hình thức để tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Một điểm quan trọng trong sự phát triển tâm sinh lí của học sinh lớp 1 là sự tưởng tượng. Giàu sức tưởng tượng là thuộc tính của trí tuệ gắn với năng lực hiểu biết của các em. Lứa tuổi các em đặc biệt là lớp đàu cấp, có thể nói đó là mảnh đất phì nhiêu để bồi đắp trí tưởng tượng cho con người. Học sinh lớp 1 thường nói lên những điều quá sự thật với niềm tin ngây thơ, những biểu hiện trên đều nằm trong sự tưởng tượng. Hoạt động tưởng tượng phải dựa trên nền tảng liên tưởng dựa trên sự ghi nhớ các sự vật hiện tượng. ý thức được vai trò của trí tưởng tượng phong phú của lứa tuổi học sinh lớp 1 và sự hấp dẫn trong văn học là rất cần thiết để khi dạy kể chuyện sáng tạo giáo viên sẽ có sẽ có sự vận dụng biện pháp, phương pháp có hiệu quả.
Học sinh lớp 1 rất hiểu động, hiếu thắng , nhiều hứng thú và muốn biết tất cả. Các em thích nghe chuyện, thích quan sát. Các nhà tâm lí học cho rằng: “Đặc điểm nổi bật nhất trong tư duy của học sinh lớp 1 là tư duy cụ thể mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc điểm trực quan và dựa vào những hành dộng thao tác trên những đối tượng cụ thể”. Đối với học sih lớp 1 tư duy trực quan, hình tượng phát triển mạnh. Từ những đặc điểm tâm sinh lí nói trên chúng ta đã xác định những biện pháp dạy học phân môn kể chuyện sáng tạo phù hợp nhất.
1. MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Trong chương trình môn Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện có một vị trí quan trọng, được xếp liền sau phân môn Tập đọc do ranh giới giữa tiếng và văn nên Kể chuyện vừa thuộc phạm trù ngôn ngữ, vừa thuộc phạm trù hình tượng nghệ thuật văn chương. Đặc điểm này thống nhất cơ bản mang tính đặc trưng của môn học vừa là cung cấp tri thức về Tiếng Việt để phát triển tối đa năng lực ngôn ngữ của mình, biết sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt để làm công cụ giao tiếp và tư duy. Mặt khác phân môn Kể Chuyện có tác dụng lớn trong việc bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ, góp phần hình thành nhân cách và đem lại cảm xúc lành mạnh cho học sinh bằng việc các em được nghe và được tham gia kể hàng trăm câu chuyện thuộc đủ các thể loại khác nhau trong suốt bậc tiểu học. Như vậy phân môn Kể chuyện có tác dụng giáo dục, giáo dưỡng thế hệ trẻ rất to lớn. Dạy phân môn này một mặt thực hiện được mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, mặt khác góp phần tạo nên tính hoàn chỉnh và thống nhất cao cho toàn bộ chương trình đào tạo. Tạo điều kiện tốt hơn tronh việc giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đào tạo con người mới của thời kì CNH- HĐH. Để thực hiện việc dạy phân môn Kể chuyện được tốt, đáp ứng được mục tiêu đề ra thì chúng ta phải có bộ chương trình hiện đại và hệ thống phương pháp dạy học hoàn chỉnh, tối ưu. Hiện nay chương trình Kể chuyện ở bậc Tiểu đặc biệt là Kể chuyện lớp 1 với việc đưa ra một hệ thống bài tập kể sáng tạo đã thực sự trở thành một cương lĩnh tiến bộ. Sự thay đổi nội dung chương trình đó đòi hỏi cần phải có sự đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Trong các tiết kể chuyện ở lớp 1 hiện nay, hầu hết các giáo viên đang còn sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống. Bên cạnh ưu điểm, những phương pháp này vẫn còn tồn tại và hạn chế. Đó là chưa phát huy được tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh, đồng thời không rèn luyện được kĩ năng lao động trí tuệ, gây cản trở việc chiếm lĩnh tri thức một cách thụ động. Việc rèn luyện kĩ năng không được quan tâm một cách đúng 1 Tôi thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu khác nhau như : Tài liệu trên mạng internet, sách, báo để phục vụ cho việc lụa chọn các giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1. * Phương pháp phân tích : Từ những nguồn tài liệu đã thu thập được tôi phải phân tích, lựa chọn những thông tin cần thiết, thích hợp. * Phương pháp thực nghiệm : Từ những tiết dạy thực nghiệm với những giải pháp khác nhau để đúc rút được những giải pháp dạy môn Kể chuyện sáng tạo cho học sinh lớp 1. * Phương pháp điều tra, đánh giá, thống kê : Tôi đối chiếu kết quả khi chưa áp dụng sáng kiến với kết quả tiết dạy thực nghiệm để thấy được hiệu quả của các biện pháp mình đã áp dụng. 2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm: * Quan điểm tâm lí học: Suốt chặng đường dài 5,6 năm trời nhờ sự giúp đỡ của người lớn, các chức năng tâm sinh lí của trẻ được hoàn thiện một cách tốt đẹp. Đó là cơ sở đầu tiên để đưa trẻ em hình thành và phát triển nhân cách con người để bước vào giai đoạn mới. Giai đoạn lứa tuổi của học sinh lớp 1, ở lứa tuổi này các em tiếp tục diễn ra sự phát triển tâm sinh lí ở mức độ cao hơn về mặt tâm lí, khả năng tri giác của học sinh lớp 1 mang tính chất đại thể ít đi sâu vào chi tiết, không mang tính chủ động. Trẻ em luôn hứng thú về một cái gì đó nhưng hứng thú biểu hiện dưới những hình thức khác nhau. Mỗi xúc động của các em lại kích thích đến cảm xuác và mỗi cảm xúc lại ảnh hưởng đến tri giác một cách khác nhau. Một trong những lĩnh vực phát triển tri giác cho học sinh lớp 1 là tri giác thẩm mĩ với các tác phẩm nghệ thuật. Điểm mới trong tri giác của các em là xuất hiện các hình tượng nghệ thuật. Việc các em tham gia vào hoạt động kể chuyện và nghe kể cũng là một trong những hình thức để tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật. Một 3 nghĩa trao đổi và giao tiếp. Tuy nhiên trong thực tế vấn còn một số em nói năng chưa đúng, kém văn hoá, dùng sai từ. Sở dĩ có hiện tượng này là do sự phát triển ngôn ngữ của các em theo con đường tự phát, bắt chước hay học lõm. Vì vậy phân môn Kể chuyện có một vai trò cực kì quan trọng, góp phần hoàn thiện ở học sinh ngôn ngữ nói không phải chỉ ở mức bình thường mà rèn luyện ngôn ngữ nói một cách nghệ thuật. * Quan điểm Giáo dục học: Cũng theo các nhà Giáo dục học hiện đại thì chỉ khi nào có một phương án phát triển coi học sinh là nhân vật trung tâm của quá trình giáo dục, lấy học sinh làm nhân vật trung tâm của quá trình dạy học và tôn trọng nhân cách của nó như một thực thể hồn nhiên thì nền giáo dục đó mới là nền giáo dục nhân văn. Tuy nhiên trong quá trình đó vai trò của người giáo viên không hề bị hạ thấp mà cần phải được nâng cao. Giáo viên là người điều khiển, tổ chức quá trình dạy học. Đúng như nhà giáo dục vĩ đại Tiệp Khắc Cô men X ki đã nói: “Đứa trẻ ra đời thế nào, điều đó chẳng ai có thể quyết định được, nhưng dẫn dắt một cách đúng đắn để các em trở thành người tốt điểu đó tuỳ thuộc vào khả năng của chúng ta, những nhà Sư phạm, những cô giáo và những người mẹ hiền.” Chính vì vậy có thể nói vai trò của người giáo viên cực kì quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu đặc điểm phát triển của học sinh lớp 1, tôi đã lấy đó làm căn cứ để nhìn nhận mặt bằng chung năng lực của học sinh lớp 1 khi làm quen hệ thống bài tập kể sáng tạo. 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Tâm lí trẻ em đặc biệt là trẻ em ở lứa tuổi từ 1 đến 12 tuổi rất thích nghe kể chuyện . Chúng thường được nghe ông bà ,cha mẹ , thầy cô kể những câu chuyện cổ tích có những nhân vật thật gần gũi với lứa tuổi của chúng . Ngoài ra kể chuyện còn đem đến cho các em nhiều niềm vui , sự thích thú , thư giãn sau những giờ học căng thẳng . Những câu chuyện đó khơi gợi ở các em lòng yêu cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội của con người. Nâng cao tâm hồn trong sáng, hướng các em tới những mơ ước cao xa cùng với sự phát triển hài hòa, toàn diện của bản thân. Ngoài 5 sinh. Các em chưa được bộc lộ hết khả năng kể chuyện cũng như tính sáng tạo ở mỗi em. Thậm chí có những giáo viên còn xem phân môn này là môn học phụ nên dạy rất sơ sài. Xuất phát từ những đặc điểm tình hình qua quá trình giảng dạy môn kể chuyện. Bản thân tôi nhận thức rằng quá trình dạy kể chuyện là một quá trình nghệ thuật khoa học phức tạp, tinh tế nhiều mặt và có tính chất độc đáo. Và điều này càng bộc lộ rõ nét hơn qua phân môn kể chuyện. Vì vậy bản thân tôi là giáo viên Tiểu học, tôi đã nghiên cứu tìm ra những hướng giải quyết để tìm cách nào tiến hành “ Một tiết kể chuyện giúp học sinh biết kể chuyện sáng tạo theo chương trình cải cách mới của học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao hơn” . * Chương trình sách giáo khoa kể chuyện lớp 1. Toàn bộ chương trình sách giáo khoa lớp 1 có 27 bài kể chuyện khác nhau như: Thần thoại, cổ tích, ngụ ngôn, truyền thuyết... ở giai đoạn Học vần học sinh được học 15 bài ôn tập, sau phần ôn tập các âm và vần mới học trong tuần, phần luyện viết và phần Tập đọc. Tất cả nội dung cùng được dạy trong 1 tiết do vậy ở giai đoạn này Kể chuyện chưa có tiết dạy riêng và bố trí sau 2 vòng nghĩa là 1 tuần có 1 tiết Kể chuyện. Mỗi mục kể chuyện được thiết kế từ 4 đến 6 tranh minh hoạ. Ví dụ: Bài: “Thỏ và Sư tử" Trang 45 có 4 tranh; Bài: “Tre ngà” Trang 57 có 6 tranh. Các tranh ở đây chỉ mang tính chất là điểm tựa để học sinh có thể dựa vào đó để kể lại chuyện. Mục kể chuyện trong sách giáo khoa được nhận biết bằng kí hiệu rất phong phú và sinh động đó là một học sinh nữ đang nói, tay phải giơ lên làm hiệu. Tiếp theo là tên truyện và tranh vẽ. Đến phận luyện tập tổng hợp có thêm chữ ở dạng yêu cầu hay câu hỏi gợi ý dưới tranh: Ví dụ: Chuyện “Sói và Sóc” (Tiếng Việt 1 – tập 2, trang 108). 1. Nghe kể chuyện 2. Kể lại từng đoạn theo tranh. - Tranh 1: Chuyện gì xảy ra khi Sóc đang chuyền trên cành cây? - Tranh 2: Sói định làm gì Sóc? - Tranh 3: Sói hỏi Sóc thế nào? - Sóc đáp ra sao? 7 - Tranh 1: Hổ nhìn thấy gì? - Tranh 2: Hổ và trâu nói gì với nhau? - Tranh 3: Hổ và người nói gì với nhau? - Tranh 4: Câu chuyện kết thúc như thế nào? 3. Kể lại toàn bộ câu chuyện. Khác hẳn so với chương trình 165 tuần các hình thức bài tập đều được sắp xếp hoàn toàn bằng kênh chữ. Nhưng ở chương trình mới đối với học sinh lớp 1 các bài tập kể sáng tạo được sắp xếp đan xen cả kênh hình lẫn kênh chữ tuy nhiên trong đó kênh hình chiếm ưu thế hơn. Ở dưới mỗi bức tranh thường có các câu hỏi, giúp học sinh nhớ lại nội dung câu chuyện. điều này phù hợp với đặc điểm của học sinh lớp 1, do học sinh lớp 1 đọc chưa thông viết chưa thạo, khả năng ghi nhớ chưa tốt nên các văn bản truyện kể dài dòng thực sự là khó khăn đối với các em. Hơn nữa đặc điểm tâm lí của các em thiên về trực quan sinh động, nên nội dung câu chuyện được thẻ chế hoá bằng các bức tranh ngộ nghĩnh, sinh động, vui mắt có tác động hấp dẫn trí tò mò của học sinh rất lớn. Lúc đó hàng loạt câu hỏi tại sao? được xuất hiện trong đầu các em. Muốn trả lời được câu hỏi thì phải lắng nghe, nhớ, hiểu rồi suy luận, liên tưởng rồi kể lại từng đoạn của câu chuyện. Sau khi kể lại từng đoạn của câu chuyện, yêu cầu học sinh phải có khả năng tổng hợp để liên lết các phần của câu chuyện lại với nhau, kể lại câu chuyện một cách mạch lạc theo ngôn ngữ riêng của mình. Chỉ với 2 hình thức bài tập, nhưng chương trình kể chuyện lớp 1 bước đầu giúp các em làm quen với hệ thống các bài tập sáng tạo. Từ đó hoàn thành dần cho các em phương pháp học tập tích cực. * Bài kể chuyện có nội dung không cố định: Bài kể chuyện không có nội dung cố định thực chất là những bài tập “mở” mang tính sáng tạo nhằm khai thác kinh nghiệm và vốn sống cho các em. Rèn cho các em kĩ năng nói cơ bản quan trọng như: Kĩ năng sắp xếp chi tiết, kĩ năng lựa chọn hình thức ngữ điệu nói. Thông qua các hình thức bài tập này bước đầu tập 9
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_day_mon_ke_chuyen_san.doc