Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp Một

1)Cơ sở lý luận:

Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1b Trường tiểu học Số 1 An Thủy với nội dung sau

* Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu giáo hoặc đi học không đều, gia đình thiếu quan tâm.

2).Cơ sở thực tiễn

 Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn đọc tuy có dễ nhưng để học sinh yếu đọc đúng âm, vần, tiếng quả không dễ dàng, vả lại việc đọc trơn một bài tập đọc cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của giáo viên là hoàn toàn chính đáng.

 Vậy làm thế nào để giáo viên giúp học sinh yếu nắm chắc âm, vần đọc đúng tiếng, bài tập đọc. Đó là mục đích chính của đề tài này.Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình . Các em chưa chăm chỉ học . Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh . Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú . Giáo viên phải gần gũi yêu thương động viên kịp thời để học sinh thích học .

 

doc11 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 926 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu Lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứu: Trang 2
IV. Phạm vi nghiên cứu: Trang 2
V. Nhiệm vụ nghiên cứu: Trang 2
VI. Phương pháp nghiên cứu: Trang 3
VII. Thời gian nghiên cứu: Trang 3
 B. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
 Chương I: Một số vấn đề về cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn
1). Cơ sở lý luận: Trang 3
2). Cơ sở thực tiễn: Trang 4
 Chương II: Thực trạng của lớp và những nguyên nhân: Trang 4 Chương III: Một số giải pháp thực hiện: Trang 4 Chương IV: Những kết quả đạt được: Trang 8 
 C. Phần kết luận.
I. Bài học kinh nghiệm: Trang 8
II. Kết luận: Trang 9 
III.Kiến nghị: Trang 9-10
 Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.
  A.Phần mở đầu:
I- Lý do chọn đề tài:  
Trong công cuộc đổi mới giáo dục và thực hiện chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước nói chung của ngành giáo dục nói riêng về việc “Nói không với tiêu cực và bệnh thành tích trong giáo dục”-“Nói không với học sinh ngồi nhầm lớp,” trong những năm học qua đã thực hiện nghiêm túc.Song theo thống kê của các trường tiểu học trong những năm gần đây đã có biết bao học sinh ở lại lớp và học sinh yếu kém ngồi nhầm lớp vẫn còn không ít. Điều đó khiến tôi rất trăn trở , lo âu làm thế nào để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém giúp học sinh nắm được kiến thức cơ bản ngay từ đầu lớp 1. Bởi lớp 1 là nền móng cho sự phát triển của học sinh sau này . Với lớp 1 điều quan trọng nhất là đọc, viết được . Có đọc tốt học sinh mới hiểu được nội dung văn bản và lên lớp trên học sinh mới học tốt được các môn học khác .
Bởi vậy, là giáo viên chủ nhiệm lớp 1, tôi xác định rõ vai trò của mình. Làm thế nào để không còn tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp. Học xong lớp 1 các em phải nắm chắc kiến thức, đọc thông, viết thạo, không còn học sinh yếu về môn đọc, để lên các lớp trên học một cách chắc chắn hơn.Đó là lý do tôi chọn đề tài: “ Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1”. 
II. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 :
Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của các âm, vần.
Đọc đúng các âm, vần đã học một cách chắc chắn.
Biết đọc trơn tiếng, từ, câu, đoạn, bài tập đọc đã học.
III . Đối tượng nghiên cứu, 
 Là học sinh lớp 1B Trường Tiểu học Số 1 An Thủy, năm học 2011- 2012.
 IV. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này được áp dụng trong tất cả các giờ Tiếng Việt ở lớp 1.
 Từ bài 1 đến bài 27.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu việc rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 ,nhằm giúp HS:
Nhận biết về cấu tạo của các âm, vần.
Đọc đúng các âm, vần đã học một cách chắc chắn.
Biết đọc trơn tiếng, từ, câu, đoạn, bài tập đọc đã học.
VI - Phương pháp nghiên cứu.
 Phương pháp điều tra.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Phương pháp thực nghiệm khoa học giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
 VII - Thời gian thực hiện
 Từ tháng 9 -2011 đến tháng 5 - 2O12
 	  B.Nội dung sáng kiến kinh nghiệm 
Chương I. Cơ sở lý luận và các vấn đề liên quan đến đề tài:
1)Cơ sở lý luận: 
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát nhỏ trong lớp 1b Trường tiểu học Số 1 An Thủy với nội dung sau :
* Tìm hiểu số học sinh đi học mẫu giáo và số học sinh không đi học mẫu giáo hoặc đi học không đều, gia đình thiếu quan tâm....
* Kiểm tra sự sự nắm bắt , nhận diện chữ cái đã học trong trường Mầm non .
 * Kết quả thu được như sau: 
Sĩ số
HS đi học đều
HS đi học không đều
Gia đình thiếu quan tâm
34
25em
5em
4em
 * Kết quả khảo sát nhận diện chữ cái:
Sĩ số
HS nẵm chắc chữ cái
Nắm chưa chắc, còn nhầm lẫn giữa các âm
34
25 em
09 em
Như vậy tỉ lệ h/s nắm chắc bảng chữ cái còn thấp, dẫn đến kết quả học chưa cao. 
 Đó là nguyên nhân chính mà tôi chọn đề tài nghiên cứu: Rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1.
2).Cơ sở thực tiễn
 Đối với trẻ là học sinh lớp 1, môn đọc tuy có dễ nhưng để học sinh yếu đọc đúng âm, vần, tiếng quả không dễ dàng, vả lại việc đọc trơn một bài tập đọc cũng là vấn đề không đơn giản. Bởi vậy nỗi băn khoăn của giáo viên là hoàn toàn chính đáng.
 Vậy làm thế nào để giáo viên giúp học sinh yếu nắm chắc âm, vần đọc đúng tiếng, bài tập đọc. Đó là mục đích chính của đề tài này.Một trong những lí do dễ thấy là vì các em chưa được sự quan tâm của gia đình . Các em chưa chăm chỉ học . Vì vậy là giáo viên chúng ta phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng phát huy những mặt tích cực của học sinh . Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn luôn cảm thấy nhẹ nhàng và thích thú . Giáo viên phải gần gũi yêu thương động viên kịp thời để học sinh thích học .
Chương II: Thực trạng của lớp và những nguyên nhân:
I.Thực trạng:
 Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi học sinh không nắm chắc âm, vần dẫn đến đọc sai, viết nhầm lẫn giữa các âm, vần . HS rất lúng túng khi đọc, viết các tiếng khó có âm, vần dễ lẫn như: ong/ ông; nh/d/gi; ân/ anh...
II. Những nguyên nhân 
 1. Nguyên nhân từ phía GV:
 - GV chưa chuẩn bị tốt cho các em khi dạy những bài trước. 
 - GV tỏ ra chủ quan, ít nhấn mạnh hoặc không chú ý lắm mà chỉ tập trung vào dạy kĩ năng nắm âm cho HS mà quên mất rằng đó là những âm, vần khó hay nhầm lẫn trong quá trình đọc, viết... 
 2. Nguyên nhân từ phía HS:
 Do HS mới bắt đầu làm quen với việc học âm, đọc tiếng, tư duy của các em còn mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em HS yếu khả năng nắm âm, vần còn chậm. Vậy làm thế nào để các em HS yếu nắm được âm, vần một cách chắc chắn, không nhần lẫn giữa các âm , vần khó để đọc đúng, đọc trơn tiếng, từ, câu, đoạn, bài tập đọc?
Chương III: Một số giải pháp thực hiện:
* Biện pháp1: Biện pháp tác động giáo dục: 
 a)Từ những thực trạng trên tôi đã tiến hành họp phụ huynh học sinh đề nghị và yêu cầu thống nhất trang bị đủ sách vở đồ dung cần thiết phục vụ cho môn học 
 b)Yêu cầu, đề nghị phụ huynh nhắc nhở uốn nắn kịp thời việc học và làm bài ở nhà của học sinh.
 c) Tham mưu với nhà trường để giáo viên có đủ đồ dung tranh ảnh và tài liệu tham khảo phục vụ bài dạy. Đồng thời mượn đồ dung học tập sách cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
 d) Xây dựng đôi bạn cùng tiến học giỏi- yếu kèm cặp nhau. 
 đ) Đưa ra các tiêu chuẩn thi đua cho từng nhóm. Đầu giờ truy bài các nhóm kiểm tra chéo nhau.Cuối 1 tuần tổng kết thi đua vào giờ sinh hoạt. Hết tháng tổng kết tháng và có trao thưởng bằng phấn màu , bút chì, vở ... 
* Biện pháp2: Phần học các nét chữ cơ bản:
 * Ngay sau những buổi đầu rèn nề nếp, tôi cho học sinh học các nét chữ cơ bản. Tôi đă dạy thật kỹ, thật tỉ mỉ tên gọi và cách viết các nét chữ đó. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ nhứng nét chữ cơ bản tôi phân theo cấu tạo các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét chữ cơ bản này mà học sinh phân biệt được các chữ cái, kể cả các chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau. 
          Thí dụ: 
Các nét chữ cơ bản và tên gọi. 
                                                 |         Nét sổ thẳng 
                                                ¾      Nét gạch ngang        
 Nhóm 1.            \         Nét xiên phải 
                        /         Nét xiên trái  
                                                          Nét móc trên 
                   Nhóm 2.                        Nét móc dưới 
                                                          Nét móc hai đầu                        
                                                          Nét cong phải 
 Nhóm 3.                      Nét cong trái 
                                                          Nét trên 
                                   Nét khuyết trên 
                   Nhóm 4.                        Nét khuyết dưới 
                                                          Nét khuyết lùn         
                                                          Nét thắt 
 *Biện pháp 3: Phần học âm: 
          Sau khi học sinh đă học thật thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học âm ( chữ cái ). Giai đoạn học chữ cái là giai đoạn vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái thì mới ghép được các chữ vào với nhau để thành tiếng, các tiếng đơn ghép lại với nhau tạo thành từ và thành câu. 
          Giai đoạn này tôi dạy cho trẻ phân tích từng nét chữ cơ bản trong từng chữ cái và nếu chữ cái đó có cùng một tên gọi song có nhiều kiểu viết khác nhau hay gặp trong sách báo như: chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là: chữ a,  chữ g để khi gặp kiểu chữ đó trong sách báo trẻ dễ hiểu và không bị lúng túng. 
          Thí dụ:  
Âm:  a - a , g - g. 
         + Âm a gồm hai nét: nét trên nằm bên trái và nét sổ thẳng nằm bên phải; a cũng gồm nét trên và nét móc trên. 
          + Âm g gồm : nét trên và nét móc dưới; g gồm nối với nét cong phải. 
          Từ việc học kỹ cấu tạo âm tạo bởi các nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau cả về cấu tạo và tên gọi của bốn âm sau: d; b; p; q. 
          Thí dụ: 
         + Âm d gồm hai nét: nét trên nằm ở bên trái và nét sổ thảng nằm bên phải. đọc là: “ dờ “. 
         + Âm b gồm hai nét: nét trên nằm ở bên phải và nét sổ thẳng nằm ở bên trái. đọc là: “ bờ “. 
          Sang phần âm ghép nghĩa là âm gồm hai âm đơn ghép lại với nhau. Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để nói lên được sự giống nhau và khác nhau của các âm đó.  
            Thí dụ: 
         + Các âm ghép: 
 ch        -      c 
 nh        -      n 
                                    th        -      t 
                                    kh        -      k                          
                                   gh        -      g 
                                   ph        -      p 
                                   ngh     -      ng      
         + Còn lại các âm: gi, tr, q, ng, tôi cho học thật kỹ cấu tạo và cách ghép chữ. 
         + Phân từng cặp: ch-tr, ng-ngh, c-k, g-gh để phát âm chính xác và viết chính tả phân biệt....     
          Trong từng ngày, từng bài ôn tôi đã nghĩ ra được một số bài để kiểm tra sự nhận thức của trẻ thông qua các giờ chơi, các giờ nghỉ. Từ đó, củng cố thêm kiến thức về từ ngữ, câu văn cho trẻ tránh sự đơn điệu của các bài ôn tập trong sách. Và những bài ôn này ở trong sách được lặp đi lặp lại  bài nào cũng như bài nào làm cho học sinh tiếp thu một cách nhàm chán nên tôi đã thay vào phần chơi trong tiết hai của bài ôn là những bài mà tôi tự nghĩ và viết ra phiếu. Có thể phiếu chỉ là một từ gồm 2 hoặc 3 tiếng cũng có thể là một câu văn. Song những từ và câu văn này phải có nghĩa và mang tính giáo dục. 
          Thí dụ: 
          Góc sân nhà Học có cây ổi đào đâm chồi nảy lộc, lộc non mơn mởn. Cứ mỗi ngày Học đều ra vun gốc để ổi mau ra quả. Cô Phúc khen Học chăm làm. 
          Cả trong những khi kiểm tra bài có thể là bảng con cũng có khi là phiếu cho học sinh lên bốc thăm rồi đọc lên. Bảng và phiếu là những từ chỉ có âm, vần mới học xong, từ đó không lấy trong sách ra. Nếu học sinh đă thuộc mặt chữ rồi thì bất kỳ một từ mới nào trẻ cũng đọc được. Đến khi học sinh viết chính tả vào bảng con, tôi cũng không đọc cho học sinh viết những tiếng và từ đă có sẵn trong bài. Thông qua phần xây dựng tiếng, từ mới trẻ được hiểu biết thêm nhiều từ và ư nghiă của các từ mà trẻ tìm đựơc của hôm trước nay viết vào bảng. Do đó phong trào tìm tiếng, từ mới học sinh rất hào hứng và phấn khởi tham gia sôi nổi nhiệt tình. Những đọan văn hay bài văn mang tính chất: 
    -  Cung cấp kiến thức về âm, vần, tiếng. 
Thí dụ: 
                             o       a        c        d        đ 
  /       \        ?        ~       . 
 giỏ đỏ có cà. 
 cò đã có cá. 
    -  Cung cấp vốn từ, câu phong phú. 
Thí dụ: 
                             u       ư        y        n        m       l         b 
                                        dì nụ là y tá ở tổ y tế. 
   bà tư bế bé lệ đi từ từ. 
             bố tú đi mô tô đỏ. 
   mẹ na mổ cá mè. 
 ng         ngh           nh        th. 
          má ngà là ca sĩ. 
                            ba tứ đi xe mô tô về nhà cô thu .
 bé nhã khệ nệ bê ghế gỗ gụ ra ngõ để bà nghỉ.
    -  Hợp thành đọan hay bài văn có nội dung mang tính giáo dục đạo đức, tư tưởng cho học sinh theo chủ điểm các đợt thi đua như kỷ niệm các ngày lễ: 8/3, 26/3, 15/5, 19/5, 22/12... để xây dựng bài cho học sinh đọc. 
*Biện pháp 4: Phần học vần: 
         *Sang đến phần học vần, học sinh đã được học chữ hoa nên trong các đoạn văn hay bài văn tôi đã luyện cho học sinh biết nhận biết và đọc chữ hoa sau dấu chấm, các danh từ riêng tên gọi. 
             - Bài: Ôn các vần có âm m cuối. 
                  am, ăm, âm, om, ôm ,ơm, em, êm ,im ,um. 
        + Bà Tám đã già quá nên đi lom khom. Khi bà bị ốm mẹ cho Thêm đến thăm bà và đem cam đến. Bà nhận quà và cảm ơn bố mẹ Thêm. Bà còn khen em lớn quá. 
        +Cô Thơm  dẫn Trâm đi xem thú ở Thủ Lệ. Trâm nhìn rõ con nhím nằm thu lu bên lùm cây tim tím. 
        + Hôm nay trời rất rét, mẹ nhắc Ngát đi học phải mặc thêm áo ấm. Giờ giải lao, Ngát mải vui nhảy và hò hét nên ra lắm mồ hôi. Thấy vậy, cô giáo nhắc Ngát và các bạn cởi bớt áo dày ra hít thở cho đỡ mệt mồ hôi đã ráo, cô nhắc các em mặc áo ấm. 
 *Và thường xuyên phân loại chất lượng học tập của học sinh nên tôi đã chia chất lượng của lớp ra làm 4 trình độ: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Và phân công: 
                    -          Giỏi kèm yếu. 
                    -          Khá kiểm tra trung bình. 
          Hàng ngày, tôi giao phiếu bài cho học sinh giỏi. Những ngày đầu, tôi trực tiếp kiểm tra học sinh giỏi, biết được các em học giỏi đã đọc trơn tru, lưu loát rồi thì khi nhận được phiếu là trẻ kiểm tra bạn một cách chính xác. Từ những điều học sinh giỏi  tiếp thu được các em sẽ in sâu và truyền thụ lại cho bạn. Lúc đó, học sinh trung và yếu dễ tiếp thu hơn. Bởi vì ông cha ta đã dạy: 
                   " Học thầy không tày học bạn  ". 
  Đúng thế trẻ dạy trẻ ngôn ngữ của trẻ dễ hòa đồng với nhau. Tuy nhỏ song trẻ cũng có lòng tự trọng thấy bạn hơn và lại dạy mình thì cũng phải cũng cố gắng học để đỡ thua kém bạn. Từ đó, chất lượng học sinh trong tương đối đồng đều. Song không ỷ lại cho học sinh giỏi mà tôi vẫn thường xuyên kiểm tra và kèm cặp học sinh trung bình và yếu nhằm củng cố cho các em về kiến thức một cách vững vàng hơn.
Chương IV : Những kết quả đạt được: 
 Qua kiểm tra kết quả phần học âm(6 tuần đầu) và các đợt KTĐK, chất lượng lớp tôi chủ nhiệm qua các năm như sau :
          Hết phần học âm ( chữ ) 100% học sinh yếu lớp tôi dạy đều nắm vững chữ, âm và đọc được tiếng, từ một cách chắc chắn. 
          Đến phần vần: Học sinh nắm vần tốt. 
          - Xây dựng tiếng, từ mới rất phong phú và dần dần đọc được các đoạn văn hay bài văn dài. 
          Cuối năm học số học sinh yếu bước đầu đã đọc trơn tốt. Song cũng có 1-2 học sinh đôi lúc cần phải đánh vần .Cụ thể:
 Kết quả
Năm học
Phần học âm
(6 tuần đầu)
Đợt 1
SL %
Đợt 2
SL %
Đợt 3
SL %
Đợt 4
SL %
2009-2010
30em
100%
25
83,3
28
93,3
30
100
30
100
2010-2011
29em
100%
25
86,2
27
93,1
29
100
29
100
2011-2012
34em
100%
30
88,2
32
94,1
34
100
34
100
         C- Phần kết luận:
I.Bài học kinh nghiệm:
 Qua việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp rèn đọc cho học sinh nói chung và rèn đọc cho HS yếu lớp 1 nói riêng cho thấy việc rèn đọc không khó mà cái khó là phương pháp rèn và cách học sao cho phù hợp với định hướng đổi mới. Vì vậy, để giúp HS yếu lớp 1 rèn đọc, cần phải:
Chuẩn bị tốt điều kiện cở sở vật chất như : Đồ dùng học tập, ánh sáng, bàn ghế, đồ dùng trực quan hợp lý.
Tập cho học sinh có thói quen quan sát kỹ cấu tạo từng âm, từng chữ để đọc đúng tiếng.
Cần tăng cường các hình thức củng cố luyện tập, nâng cao bài viết để một mặt tạo cho giờ học sinh động nhẹ nhàng, tâm lý thoải mái, mặt khác tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa đọc- viết và học vần, chính tả góp phần nâng cao hiệu quả giờ học của học sinh.
Dạy đọc kết hợp tích hợp các môn học khác giúp học sinh tận dụng việc đọc các bài học, bài làm ở các môn học để học sinh tập đọc đúng. Đối với học sinh lớp 1 nói riêng và bậc học nói chung. Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng đọc ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như vậy việc luyện đọc mới được củng cố đồng bộ thường xuyên.
Giáo viên cần phải kiên trì, cẩn thận, nhiệt tình, gương mẫu, chịu khó và thực sự “ yêu nghề mến trẻ” luôn tạo sự gần gũi, thương yêu học sinh để các em có tâm thế thoải mái trong giờ học .
Thường xuyên theo dõi kiểm tra,sữa chữa kịp thời để phát hiện những sai sót của học sinh khi phát âm và đọc tiếng.
Phụ huynh cần quan tâm, chăm lo đầy đủ các điều kiện học tốt ; nhắc nhở các em đi học chuyên cần đúng giờ.
BLĐ trường hỗ trợ đắc lực tạo điều kiện tốt về cở sở vật chất để hỡ trợ cho việc dạy và học . 
II. Kết luận:
 Tóm lại, ở tất cả các trường hợp học sinh yếu đọc, việc quan tâm của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, kịp thời khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về kiến thức, kỹ năng nhận chữ nhanh sẽ giúp các em dần theo kịp yêu cầu về chất lượng đọc ở cấp Tiểu học
 Song nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên vẫn là sự tiến bộ chung của toàn lớp. Vì thế tôi nghĩ, trong trong tất cả các khâu soạn, giảng, kiểm tra người giáo viên vẫn phải lấy trình độ tiếp thu chung của lớp làm chuẩn mực để hướng tới. Vấn đề là, trong cái chuẩn mực chung ấy người giáo viên thầy cần phải luôn luôn lưu tâm đến những em học yếu đọc , luôn dành cho các em một sự ưu ái, một thái độ khích lệ, động viên, những lời chỉ bảo ân cần và sự tiến bộ của các em trong học tập là phần thưởng vô giá đối với mỗi người giáo viên chúng ta.
 Tuy nhiên, để có được kinh nghiệm rèn đọc cho HS yếu lớp 1, người giáo viên phải dày công nghiên cứu tài liệu và theo dõi học sinh qua nhiều năm, nắm bắt được điểm yếu của HS để tập trung khắc phục. Có như vậy việc giảng dạy và giáo dục mới thành công như mong muốn. 
 III. Một số kiến nghị:
 Để cuối năm tỷ lệ học sinh yếu đọc lớp 1 nói riêng, và ở các khối lớp nói chung, tôi có 1 số kiến nghị như sau :
* Về phía nhà trường cần tổ chức cho giáo viên khảo sát, thống kê số học sinh yếu đọc ngay từ đầu năm học .
* Về phía giáo viên phải thực sự quan tâm ,yêu thương, gần gũi , kiên trì và tạo không khí vui vẻ để học giúp các em học yếu yêu thích môn học .
* Về phía học sinh: Đi học chuyên cần,tham gia học đầy đủ các buổi do nhà trường, khối tổ chức bồi dưỡng, ngoại khóa .
Trên đây là quá trình nghiên cứu , áp dụng kinh nghiệm sáng kiến vào đổi mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp rèn đọc cho học sinh yếu lớp 1 nói riêng. Tôi hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu thành công về đổi mới phương pháp dạy môn Đọc -Tiếng Việt và nâng cao hiểu biết cho bản thân trong quá trình dạy học ở Tiểu học.
 Đó là một vài kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đúc rút được qua quá trình giảng dạy và áp dụng để nâng cao chất lượng rèn đọc cho HS lớp 1B nói riêng và khối 1 Trường An Thủy nói chung. Tuy nhiên còn có rất nhiều đồng chí cũng đã và đang áp dụng nhiều biện pháp và việc làm khác hay hơn nữa. Rất mong sự góp ý, giúp đỡ của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. 
 Xin chân thành cảm ơn!
 An Thủy, ngày 20 tháng 5 năm 2012
 Người viết SKKN
 Nguyễn Thị Mơ
Ý kiến đánh giá của HĐKH trường Tiểu học Số 1 An Thủy:
........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.doc
Sáng Kiến Liên Quan