Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác bồi dưỡng Học sinh giỏi ở trường THPT Kim Sơn A, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình

Đối tượng học sinh trong các đội tuyển học sinh giỏi được lựa chọn là những em nổi trội nhất ở các môn trong toàn khối lớp. Sau đó học sinh làm việc cùng các giáo viên được phân công ôn luyện.

* Ưu điểm:

- Vẫn chọn được cơ bản đúng đối tượng mong muốn cho từng môn học.

* Tồn tại:

- Học sinh lựa chọn chưa được trải qua các kỳ thi sát hạch, các kì thi định hướng của nhà trường(ví dụ như kì thi học sinh giỏi cấp trường ), hoàn toàn phụ thuộc vào tính chủ quan của người tuyển chọn, nên không thể tránh khỏi đôi lúc có tính cục bộ.

- Do các em bản thân ở rải rác các lớp trong toàn khối, nên kiến thức nền tảng trang

bị cho các em ở mỗi lớp với mỗi thầy giáo, cô giáo dạy sẽ khác nhau về cách tiếp cận, điều này sẽ khó cho giáo viên ôn luyện khi làm việc với các em, vì phải mất một khoảng thời gian không nhỏ để tìm hiểu từng học sinh một, sau đó mới ra được phương pháp làm việc chung.

 

doc23 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo trong công tác bồi dưỡng Học sinh giỏi ở trường THPT Kim Sơn A, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
í là cả phụ huynh học sinh nữa(sở dĩ tôi nói như thế là vì, hiện nay học sinh của chúng ta có xu hướng tập chung học để cố gắng thi đỗ vào trường đại học mình dự định và các em nghĩ việc vào một đội tuyển học sinh giỏi rất dễ bị ảnh hưởng đến mục đích chung của mình và ngay chính bố mẹ các em cũng cùng chung suy nghĩ, nên thực tế có những lúc giáo viên của chúng ta vừa ôn luyện kiến thức cho các em vừa phải làm công tác cho cả học sinh và phụ huynh học sinh để cho các em yên tâm ôn luyện). Vì vậy, nhà trường cần phải có biện pháp nuôi dưỡng thật tốt để cho các em và cha mẹ các em nhận thức rõ, được vào các đội tuyển học sinh giỏi của nhà trường là niềm vinh dự, tự hào của các em và gia đình các em; các em cũng phải hiểu rõ được trách nhiệm của mình là cần phải đóng góp công sức để cùng các thầy giáo, cô giáo trong trường xây dựng thương hiệu nhà trường. Cụ thể:
+ Khi ở trong đội tuyển học sinh giỏi thì về mặt kiến thức môn học đó các em được các thầy giáo, cô giáo giúp đỡ để nghiên cứu sâu, rộng hơn các bạn khác, và cơ hội thi các môn học này ở các kì thi được điểm tối đa là cao;
+ Vào đội tuyển các em phải tập trung sâu, nên một số công việc khác như lao động, trực nhật được ưu ái hơn so với các bạn;
+ Trong đội tuyển chính thức các em được miễn một số các khoản tiền thuộc phạm vi của nhà trường quyết định như tiền học thêm
+ Khi đi thi có giải các em có cơ hội kết nạp Đảng viên ở trong trường; được khen thưởng; được nhận học bổng của các hội(như hội khuyến học; học bổng Nguyễn Công Trứ; giải thưởng Đinh Bộ Lĩnh)
b) Xây dựng đội ngũ giáo viên cốt cán
“ Muốn có học sinh giỏi, trước hết phải có thầy giỏi” đây là chân lí không thể thay đổi, chính vì thế nhà trường luôn phải chú trọng xây dựng đội ngũ giáo viên đoàn kết, yêu nghề, say mê công việc, đồng thời tạo điều kiện cho họ được bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về lí luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Vì đây là bộ phận tinh hoa của nhà trường, lao động của họ trực tiếp và gián tiếp thúc đẩy sự phát triển nhà trường, giúp nhà trường đi vào trạng thái phát triển bền vững. Ngoài các biện pháp như dự giờ, thao giảng, hội giảng, kiểm tra nội bộ thì trường THPT Kim Sơn A còn thực hiện các giải pháp sau đây để nâng cao chất lượng đội ngũ về mặt chuyên môn và thường xuyên bồi dưỡng kiến thức cho học sinh trong các đội tuyển:
+ Phân công giảng dạy trong năm học, trong khối học(sau khi đã phân hóa học sinh) gắn liền với mục đích phân công giáo viên ôn luyện đội tuyển học sinh giỏi. Đây là một giải pháp vô cùng quan trọng sau giải pháp đột phá(là phân loại học sinh), bởi vì sau khi phân hóa học sinh và đã khoanh vùng được lực lượng học sinh là nòng cốt cho chọn đội tuyển học sinh giỏi thì việc phân công giáo viên vừa ôn luyện và vừa giảng dạy ở lớp có nhóm đối tượng học sinh đó sẽ giúp cho giáo viên và học sinh có cơ hội thường xuyên làm việc với nhau hàng giờ trên lớp học và kiến thức chuyên sâu của các thầy giáo, cô giáo bồi dưỡng cho các em được trang bị dần dần, sẽ mang tính bền vững cao hơn là dạy dồn một lúc. Chỉ đến khi vào giai đoạn cuối của thời gian ôn luyện thì thầy và trò với tách ra để tập trung cao độ hơn và đi vào luyện dạng đề thi.
+ Đẩy mạnh hoạt động tổ chuyên môn như thường xuyên tổ chức các hoạt động hội giảng, báo cáo chuyên đề nhằm nâng cao trình độ cho giáo viên, khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học, tích cực tự học, tự rèn luyện, tự đúc rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm nhằm phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh. Đây là giải pháp nhằm tránh tính cục bộ của cá nhân giáo viên(sự cục bộ sẽ giúp kìm hãm sự phát triển của giáo viên, dẫn đến kìm hãm sự phát triển của nhóm chuyên môn). Giải pháp này sẽ giúp tất cả giáo viên phải cố gắng, phải lao động và tất cả giáo viên có cơ hội như nhau để thử sức vào các nhóm đối tượng học sinh khác nhau, cũng như cơ hội để tham gia ôn luyện các đội tuyển.
+ Thường xuyên tổ chức kiểm tra kiến thức chuyên môn của tất cả giáo viên trong tổ, từ đó tạo động lực cho giáo viên có hướng tự học, tự nghiên cứu, đồng thời thông qua hoạt động này giúp cho các tổ chuyên môn tạo nguồn để dự thi giáo viên có giờ dạy giỏi các cấp và là cơ sở để giao nhiệm vụ ôn luyên đội tuyển.
 Như chúng ta đã biết, đối với những giáo viên được phân công giảng dạy, ôn luyện học sinh giỏi thì mất rất nhiều thời gian và trí tuệ. Chính vì vậy, nhà trường phải thường xuyên khơi dậy niềm tự hào của giáo viên khi được nhận trách nhiệm dạy ôn luyên đội tuyển và xác định đây là nhiệm vụ vô cùng quan trọng vì kết quả của nó sẽ phản ánh vị thế của nhà trường so với các trường bạn, phản ánh uy tín của giáo viên trong nhà trường, trong phụ huynh học sinh. Tuy vậy đối với giáo viên thì chất lượng giáo dục và kết quả học sinh giỏi các cấp là thước đo chính xác nhất để đánh giá năng lực của giáo viên. Từ đó tạo cho mỗi giáo viên được phân công giảng dạy bồi dưỡng có sự đam mê, đầu tư hết sức vào công việc để đem lại hiệu quả cao nhất. Việc phân công giáo viên từng bộ môn, từng khối phải có kế hoạch sớm từ những năm đầu để ổn định và chuyên sâu. Nhà trường nên phân công giáo viên cố định việc dạy bồi dưỡng theo khối để tích lũy kinh nghiệm, sau đó thì thực hiện phân công luân phiên để tránh tình trạng lối mòn trong giảng dạy, đồng thời giúp giáo viên có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chương trình toàn cấp học của môn mình và rút kinh nghiệm kịp thời.
4.2.3.2. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi:
Trên cơ sở phương hướng thực hiện nhiệm vụ năm học, ngay từ đầu năm Ban giám hiệu phải xác định phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường, từ đó hiệu trưởng chỉ đạo cho bộ phận chuyên môn xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường một cách cụ thể về việc phân công giảng dạy, về thời gian bồi dưỡng, về công tác quản lí, về tài chính.
Về khung thời gian bồi dưỡng
- Thời gian bồi dưỡng thường xuyên: Sau khi phân hóa học sinh, lựa chọn lực lượng nòng cốt thì việc thực hiện bồi dưỡng học sinh giỏi được thực hiện ngay trên lớp học, trong các giờ học hàng ngày.
- Thời gian bồi dưỡng “cấp tốc”: Được tổ chức và thực hiện trước thời gian tổ chức kì thi do các cấp chỉ đạo khoảng 2 đến 3 tháng, tùy vào mức độ chuyên sâu của từng kì thi và từng môn học. Giai đoạn này là giáo viên và học sinh tách ra khỏi tập thể lớp để làm việc cùng nhau. Giáo viên sẽ bổ sung những kiến thức còn thiếu cho học sinh để đảm bảo tính toàn diện của chương trình thi. Có thể nói giáo viên trong giai đoạn này phải làm việc cật lực và có tính định hướng quan trọng, quyết định đến hiệu quả của kì thi. Học sinh cũng cần phải tập trung tối đa và chuyên sâu cho môn ôn luyện. Do vậy thời gian biểu làm việc của thầy và trò trong giai đoạn này 
cũng hết sức linh hoạt, không thể bị bó buộc bởi một thời khóa biểu cố định nào.
Về công tác quản lí
- Việc phân công giảng dạy hàng năm trùng với việc phân công ôn luyện là giải pháp quản lí hữu hiệu nhất, vô hình chung việc ôn luyện học sinh giỏi được diễn ra thường xuyên, liên tục hàng ngày ở trên lớp cho đến khi có kế hoạch tổ chức thi.
- Tổ chức các kì thi học sinh giỏi cấp trường là giải pháp quản lí giúp cho giáo viên có cơ sở tìm nguồn và định hướng sớm cho học sinh.
- Trong giai đoạn ôn luyện “cấp tốc” Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên cập nhật thông tin để có biện pháp điều chỉnh kịp thời:
+ Đối với giáo viên ôn luyện: Cần tìm hiểu xem họ gặp khó khăn gì và mong muốn gì để tạo điều kiện thuận lợi cho thầy giáo, cô giáo tập trung sâu vào làm việc.
+ Đối với học sinh: Thông qua giáo viên chủ nhiệm và qua trao đổi trực tiếp với học sinh để thăm dò ý kiến, nguyện vọng của các em, cùng với những khó khăn các em đang gặp phải để giúp các em vượt qua.
+ Đối với phụ huynh học sinh: Thông qua hội nghị PHHS tuyên truyền sâu rộng để cha mẹ hiểu rằng khi các em được vào đội tuyển và đạt được thành tích ở một môn nào đó cũng đều quan trọng vì đó là một trong những yếu tố định hướng cho con em họ sau này. 
Về công tác tài chính
Phát huy quyền tự chủ về mặt tài chính và phải thấy rõ được tầm quan trọng của phong trào học sinh giỏi trong nhà trường để trong quá trình xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ cần chú trọng:
- Mức chi cho công tác ôn luyện của giáo viên.
- Mức khen thưởng cho giáo viên và học sinh khi có giải để ghi nhận thành tích của thầy và trò.
- Huy động thêm nguồn lực từ PHHS, các tổ chức khác để khen thưởng cho học sinh và giáo viên
(Phụ lục 2)
4.2.3.3. Xây dựng chính sách khích lệ giáo viên và học sinh:
Đối với học sinh:
Khi học sinh tham gia trong đội tuyển học sinh giỏi các em được hưởng những quyền lợi sau:
- Được tích lũy kiến thức sâu, rộng hơn;
- Được miễn học phí học thêm;
- Học sinh đạt giải cao là tiêu chí để xét kết nạp Đảng viên trong trường;
- Được vinh danh và khen, thưởng trong các hội nghị của nhà trường và các cấp khác.
Đối với giáo viên:
Các thầy giáo, cô giáo tham gia ôn luyện đội tuyển được hưởng những quyền lợi sau:
- Khi các thầy giáo, cô giáo dạy học sinh có giải được vinh danh và khen thưởng tại nhà trường và các cấp khác;
- Hiệu quả của đội tuyển các thầy giáo, cô giáo đảm nhiệm là một tiêu chí quan trọng để xét duyệt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp cơ sở;
- Mức kinh phí chi trả cho giáo viên ôn luyện căn cứ vào hiệu quả ôn luyện:
(Phụ lục 3)
4.2.3.4. Xây dựng truyền thống nhà trường:
Để hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả, khích lệ được cả thầy và trò cần phải xây dựng truyền thống của nhà trường và thường xuyên tuyên truyền trong các hội nghị như ở các buổi chào cờ, họp hội đồng giáo dục, họp phụ huynh học sinh để khích lệ cả học sinh và giáo viên năm sau phải cố gắng giữ vững và đạt hiệu quả cao hơn năm trước. Đây cũng là giải pháp gián tiếp tạo sự cạnh
tranh lành mạnh trong đội ngũ giáo viên, cũng như trong học sinh, cụ thể là:
- Công bố kịp thời những thành tích đạt được của các đội tuyển dưới buổi chào cờ, trong các hội nghị và tuyên dương, khích lệ thầy và trò.
- Làm bảng tuyên dương học sinh giỏi, giáo viên có học sinh giỏi để ghi tên những học sinh và giáo viên đạt được thành tích từ khi thành lập trường. Ngoài ra phải làm cho học sinh, giáo viên thấy được vinh dự lớn lao khi bản thân các em đạt được những thành tích trong các kì thi học sinh giỏi và giáo viên có học sinh giỏi trong các kì thi.
- Thành lập trang webside của nhà trường, tổ chức viết bài, đăng bài về truyền thống nhà trường và những tấm gương học sinh giỏi, giáo viên có học sinh giỏi để khích lệ và động viên cả thầy và trò.
Ý nghĩa của các giải pháp mới: 
Với các trường THPT việc nâng cao chất lượng đại trà là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, bên cạnh đó phong trào học sinh giỏi các cấp một mặt nó là tiêu chí quyết định để cấp trên căn cứ xếp loại thi đua cho nhà trường, mặt khác theo tôi đây cũng là tiêu chí để nhà trường khẳng định với nhân dân trong huyện về chất lượng giáo dục – đào tạo. Chúng ta đều biết “sản phẩm” của ngành giáo dục là tạo ra con người. Nếu “sản phẩm” đó ngày càng được nâng dần về chất lượng thì đó là một nguồn nhân lực quan trọng và hữu ích cho xã hội. Chính vì vậy, mà những năm gần đây các cấp quản lí giáo dục càng chú trọng hơn vào việc nâng dần chất lượng giáo dục, đặc biệt là phong trào mũi nhọn như phong trào học sinh giỏi.
V. Hiệu quả kinh tế và xã hội dự kiến đạt được:
5.1. Hiệu quả kinh tế:
Khi áp dụng các giải pháp trên trong công tác quản lí nó đã thúc đẩy được phong trào học sinh giỏi của trường THPT Kim Sơn A ngày một hiệu quả và kèm theo đó là các hoạt động khác của nhà trường cũng mạnh lên. Một bài toán kinh tế ta tính được, ví dụ như năm học 2013 -2014:
- Đối với tập thể trường THPT Kim Sơn A:
+ Nhận cờ xuất sắc trong phong trào học sinh giỏi được thưởng: 1.000.000đ
+ Nhận cờ xuất sắc của tỉnh được thưởng: 17.825.000đ
+ Nhận cờ của Thủ tướng chính phủ được thưởng: 28.175.000đ
- Đối với học sinh được giải: Tổng tiền thưởng là 98.000.000đ
- Đối với giáo viên có học sinh đạt giải: Tổng tiền giải thưởng là 77.250.000
 Ngoài ra, khi phòng trào học sinh giỏi của nhà trường mạnh lên điều này khẳng định đội ngũ giáo viên nhà trường có năng lực thực sự và kho tài liệu các thầy giáo, cô giáo ôn luyện cho các em khẳng định là có chất lượng cao, cần 
phải phổ biến rộng rãi cho cả giáo viên và học sinh tham khảo để tích lũy kiến thức. 
Giả sử mỗi một bộ môn biên tập tài liệu đó thành một cuốn sách dày 100 trang. Hình thức phổ biến là phô tô cho giáo viên và học sinh với mức tiền phô tô là 20.000/cuốn. Căn cứ vào số lượng giáo viên từng bộ môn và số học sinh trong toàn trường chúng ta có bảng tổng hợp để tính ra tổng số tiền chúng ta có thể thu được (coi như tiền bản quyền là miễn phí) như sau:
TT
Môn
Số giáo viên
Số học sinh
Thành tiền
1
Toán học
14
1282
25.920.000
2
Vật lí
9
1282
25.820.000
3
Hóa học
8
1282
25.800.000
4
Sinh học
3
1282
25.700.000
5
Ngữ Văn
7
1282
25.780.000
6
Lịch sử
4
1282
25.720.000
7
Địa lí
4
1282
25.720.000
8
Tiếng Anh
10
1282
25.840.000
Tổng
59
10.265
206.480.000
Khi áp dụng các giải pháp nêu trên trong toàn tỉnh với số lượng 27 trường thì lượng tiền mang lại còn lớn hơn nhiều.
5.2. Hiệu quả xã hội:
Khi chất lượng học sinh giỏi các cấp của nhà trường hàng năm được nâng lên và giữ vững thì sẽ kích thích niềm say mê học tập của tất cả học sinh trong toàn trường. Từ đó giúp cho chất lượng đại trà sẽ được nâng lên và từng bước khẳng định vị thế thương hiệu của nhà trường. Thật vậy, đối với trường THPT Kim Sơn A sau 5 năm áp dụng các giải pháp trên, mặc dù kết quả từng năm có sự thay đối về số lượng nhưng về phong trào mũi nhọn này vẫn được duy trì và giữ vững nhiều năm liên tục làm cơ sở cho việc kích thích học sinh say mê học tập, từ đó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng đại trà. Khi nhà trường thực hiện tốt công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ giúp cho Sở Giáo dục và Đào tạo có một lực lượng học sinh giỏi vững mạnh để làm nguồn lựa chọn thi cấp quốc gia.
Trước khi áp dụng các giải pháp nói trên kết quả phong trào học sinh giỏi của nhà trường là:
STT
Năm học
Số giải HSG tỉnh,QG
Xếp thứ tự trong tỉnh
1
2009 - 2010
29
4
Nhưng trong 5 năm vừa qua áp dụng các giải pháp đó, chất lượng giáo dục của nhà trường đã gặt hái được nhiều thành tích đáng tự hào thông qua các bảng tổng 
hợp số liệu sau:
- Kết quả Phong trào Học sinh giỏi:
STT
Năm học
Số giải HSG tỉnh,QG
Xếp thứ tự trong tỉnh
1
2010 - 2011
33
2
2
2011 - 2012
47
2
3
2012 - 2013
82
1
4
2013-2014
102
Cờ Xuất sắc
5
2014 -2015
127
Cờ Nhất
( Giải thích_ Phụ lục 6)
- Kết quả thi Tốt nghiệp THPT:
STT
Năm học
Số học sinh
dự thi
Số học sinh
đỗ TN
Đạt tỷ lệ
đỗ TN (%)
1
2009 - 2010
517
516
99.81%
2
2010 - 2011
531
531
100%
3
2011 - 2012
505
505
100%
4
2012 - 2013
470
470
100%
2013 -2014
447
446
99.78%
- Kết quả thi Đại học, Cao đẳng:
STT
Năm học
Tỷ lệ đỗ Đại học, Cao đẳng
Xếp thứ tự
 trong tỉnh
Xếp thứ tự 
quốc gia
1
2009 - 2010
61,2%
4
228/2700
2
2010 - 2011
86,7%
3
155/2700
3
2011 - 2012
90,4%
4
145/2700
4
2012 -2013
95,6%
2
65/2700(Top 100)
5
2013 - 2014
94.3%
2
84/2830(Top 100)
 Từ kết quả trên, trường THPT Kim Sơn A hiện nay là “địa chỉ đỏ” trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của huyện Kim Sơn và của cả tỉnh Ninh Bình. Chính vì thế mà quy mô phát triển của nhà trường luôn bền vững. Điều này thể hiện qua các bảng thống kê dưới đây:
- Về quy mô và kế hoạch phát triển:
STT
Năm học
Số lớp
Số học sinh đầu năm
Số học sinh cuối năm
Kế hoạch thực hiện
Công lập
Bán công
1
2010 - 2011
33
0
1586
1591
100,3%
2
2011 - 2012
33
0
1455
1457
100,1%
3
2012 - 2013
33
0
1371
1373
100,1%
4
2013-2014
33
0
1298
1301
100,1%
5
2014 -2015
33
0
1245
1233
99.04%
- Chất lượng giáo dục đạo đức:
STT
Năm học
Loại Tốt, Khá
Loại TB
1
2010 - 2011
99,26%
0,74%
2
2011 - 2012
99,34%
0,66%
3
2012 - 2013
99,4%
0,6%
4
2013-2014
99,69
0,31%
5
2014 -2015
99.59%
0.41%
- Chất lượng giáo dục văn hóa:
STT
Năm học
Khá, Giỏi
TB
Yếu
Kém
Tỷ lệ lên lớp
1
2010 - 2011
58,7%
38,9%
2,4%
0,0%
99,4%
2
2011 - 2012
59,1%
39,6%
1,3%
0,0%
99,7%
3
2012 - 2013
60,2%
38,3
1,5%
0,0%
99,8%
4
2013-2014
64,51%
34,4%
0,94%
0,15%
98,91%
5
2014 -2015
68,13%
31,33%
0,54%
0,0%
99.46%
VI. Điều kiện và khả năng áp dụng
6.1. Điều kiện áp dụng:
- Tranh thủ sự quan tâm, tạo điều kiện của chi bộ Đảng, sự ủng hộ của cấp trên,sự giúp đỡ của các tổ, nhóm chuyên môn để triển khai công việc kịp thời.
- Tạo được lòng tin đốivới nhân dân, đặc biệt là phụ huynh học sinh.
- Có chế độ động viên, khích lệ đội ngũ giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi và những học sinh đạt học sinh giỏi các cấp.
- Xây dựng kế hoạch có tính khả thi, đặc biệt phải chú trọng công tác phân công giảng dạy, ôn luyện, chế độ chi trả, chế độ khen thưởng và cần phải tạo được sự đồng tâm trong tập thể nhà trường.
- Hiệu trưởng phải tăng cường động viên, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần để kích thích lòng nhiệt tình, hăng say nghiên cứu của giáo viên. Chủ động gặp gỡ, trao đổi, nắm bắt những tâm tư, nguyện vọng, những đề xuất, kiến nghị của giaso viên, của học sinh bồi dưỡng để từ đó tìm giải pháp đáp ứng, đặc biệt quan tâm đến vấn đề tài liệu, điều kiện khai thác tài liệu phục vụ cho quá trình ôn luyện
- Giáo viên giỏi là lực lượng nòng cốt, trụ cột trong nhà trường, quyết định công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Do đó, cần phải quan tâm, xây dựng đội ngũ nòng cốt một cách liên tục và thường xuyên tạo mọi điều kiện để các giáo viên nâng cao nghiệp vụ nghề nghiệp.
- Các môn chưa phải là thế mạnh của nhà trường thì chủ động phối hợp với các trường bạn để học hỏi kinh nghiệm nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ vững vàng hơn.
- Khi chọn học sinh giỏi đội tuyển phải đảm bảo hai yếu tố: Yếu tố tâm lí thoải mái giữa thầy và trò trên năng lực của học sinh và yếu tố học sinh phải yêu thích môn học mà mình tham gia ôn luyện để dự thi.
- Làm tốt công tác động viên, khen thưởng những giáo viên và học sinh có thành tích trong phong trào.
- Làm tốt công tác xã hội hóa nhằm khích lệ hơn nữa thầy và trò.
6.2. Khả năng áp dụng
Thực tế ngày càng khẳng định việc bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ quan 
trọng trong chiến lược phát triển nhân tài của đất nước. Học sinh giỏi là yếu tố thúc đẩy chất lượng giáo dục của nhà trường. Nhà trường muốn tạo thương hiệu riêng cho mình trong việc nâng cao chất lượng đại trà thì chất lượng mũi nhọn là vấn đề then chốt góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của giáo dục nhà trường, nó vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài.
Các giải pháp trên đã đước áp dụng tại trường THPT Kim Sơn A trong 5 năm và kết quả nhà trường đã cho thấy tính hiệu quả của nó. Nhưng theo tôi nghĩ những giải pháp này có thể áp dụng ở tất cả các trường THPT trong toàn tỉnh, tuy nhiên tùy vào tình hình thực tế của từng đơn vị mà có thể vận dụng hay bổ sung, thay thế các giải pháp. Điều quan trọng nhất là để thực hiện công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đạt hiệu quả một cách bền vững thì cần một tinh thần quan tâm cao của Hiệu trưởng nhà trường trong công tác đổi mới quản lí, cụ thể là việc phân hóa đối tượng học sinh và xây dựng đội ngũ giáo viên. Thật vậy, Hiệu trưởng nhà trường cần xây dựng một lộ trình hợp lí, bám sát thế mạnh của đơn vị, khắc phục hạn chế, yếu kém, làm tốt việc nâng cao chất lượng dạy và học; công tác chỉ đạo cần khoa học và rõ ràng. Biết làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tạo nguồn kinh phí khích lệ giáo viên và học sinh nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng, phát triển nhân tài, nâng cao chất lượng mũi nhọn là yếu tố thúc đẩy có hiệu quả trong việc xây dựng thương hiệu nhà trường.
Trên đây là một vài giải pháp trong công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ở trường THPT Kim Sơn A mà tôi đã rút ra từ thực tiễn làm việc. Rất mong được sự góp ý quý báu của thầy giáo, cô giáo trực tiếp giảng dạy và các thầy giáo, cô giáo làm công tác quản lí trường học để công tác chỉ đạo bồi dưỡng học sinh giỏi ngày một hiệu quả và bền vững hơn./
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
Lê Thị Lan Anh

File đính kèm:

  • doc1. KSA_QLGD_Mot so bien phap chi dao trong cong tac boi duong hoc sinh gioi.doc
Sáng Kiến Liên Quan