Sáng kiến kinh nghiệm Vai trò của giáo viên trong việc tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)
Thực trạng đề tài:
Năm học 2015-2016, tôi được phaân coâng dạy lớp 3/1 cuûa trường Tiểu học Thị trấn Thạnh Hóa vôùi tổng số học sinh laø 32 em. Đây là năm thứ hai bản thân thực hiện mô hình trường học mới VNEN nhưng vẫn không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc bởi các lý do sau:
1.1 Việc dạy của giáo viên:
- Giáo viên chưa nắm chắc được nội dung chương trình một cách tổng thể, đây là điều khó khăn khi phân bố thời lượng giảng dạy và dự kiến những khó khăn mà học sinh mắc phải nên chưa có phương pháp phù hợp nhất trong việc tổ chức dạy học.
- Mặc dù đã được tiếp thu các chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học, song giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới như: thành lập hội đồng tự quản chưa thúc đẩy được sự phát triển về tình cảm, chưa phát huy tính dân chủ ở học sinh; giáo viên chưa thúc đẩy vai trò của các ban.
1.2 Việc học của học sinh:
- Kỹ năng đọc của đại đa số học sinh chưa tốt nên các em chưa đọc và nắm rõ yêu cầu, chưa biết cách tổ chức nhóm mình hoạt động và hoạt động chưa hiệu quả.
- Một số nhóm trưởng kĩ năng điều hành chỉ đạo nhóm chưa hiệu quả.
- Một số học sinh kĩ năng giao tiếp hạn chế, rụt rè.
- Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đôn đốc con em học tập, ý thức hợp tác với nhà trường còn thấp.
nơi học sinh cùng nhau học tập để lĩnh hội những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc sống của các em. Vai trò của giáo viên thay đổi thật sự, giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn và khích lệ các em tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ, bình đẳng. Tuy nhiên, một số giáo viên đôi khi vẫn còn nặng về vai trò truyền thụ kiến thức. Một số học sinh chưa mạnh dạn, tự tin tham gia vào quá trình học tập và các hoạt động giáo dục, kỹ năng sống còn hạn chế. Bởi vậy, khi thực hiện mô hình trường học mới, hơn ai hết bản thân người giáo viên phải tích cực đổi mới hoạt động sư phạm của mình với phương châm “Chuyển đổi từ truyền thụ của giáo viên sang tổ chức hoạt động tự học của học sinh, quá trình tự học, tự giáo dục là trung tâm của hoạt động giáo dục”. Tôi hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức cho học sinh hoạt động khám phá, phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. Giáo viên không phải soạn bài nhưng dành thời gian nghiên cứu kĩ bài học trước khi lên lớp, làm đồ dùng, sưu tầm tư liệu giúp học sinh gắn kiến thức với thực tiễn; vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức phù hợp với nội dung bài dạy và đối tượng học sinh, đánh giá hiệu quả đạt được sau mỗi tiết dạy để có biện pháp cụ thể khắc phục những tồn tại ở tiết học sau. Trong mỗi giờ dạy, giáo viên không giảng bài để truyền thụ kiến thức cho học sinh mà hướng dẫn học sinh làm việc với tài liệu Hướng dẫn học qua hình thức hoạt động nhóm có sự hỗ trợ của đồ dùng học tập. Khi tổ chức, hướng dẫn học sinh, giáo viên phải quan sát tốt các tình huống xảy ra để phát hiện và kịp thời giúp đỡ cá nhân, nhóm học sinh nếu các em có tín hiệu yêu cầu hoặc khi các em đã hoàn thành nhiệm vụ học tập, giáo viên phải có khả năng tương tác bằng lời nói, hành động mới điều khiển được các hoạt động học tập. Giáo viên phải biết khuyến khích mọi cố gắng, nỗ lực, sáng kiến và những tiến bộ dù là nhỏ nhất của học sinh để những học sinh vốn rụt rè, nhút nhát dần trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Mặc khác để phát huy tốt năng lực học sinh năng khiếu tôi đưa ra các bài tập nâng cao hay câu hỏi khó rồi kín đáo bỏ vào hộp thư cá nhân của học sinh, sau đó nói nhỏ với học sinh: “Em có thư” để học sinh đến lấy và hứng thú giải quyết, Cuối tiết học hoặc trong giờ ra chơi cho em đó được nói về bức thư của mình và hướng giải quyết. Nếu làm tốt, giáo viên khen ngợi và tuyên dương trước lớp. Nếu học sinh không làm được giáo viên giúp học sinh giải quyết và không quên động viên học sinh. Có thể ra thêm bài tập tương tự để học sinh làm được từ đó các em tự tin và hứng thú hơn. 3.2. Đổi mới phương pháp học: Ở mô hình trường học mới, học sinh không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà ngược lại các em chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích so sánh với các bạn cùng nhóm, tương tác với giáo viên và cộng đồng. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện “ 10 bước học tập”. Quá trình chiếm lĩnh tri thức được khởi đầu bằng việc học sinh đọc và viết tên bài học tiếp đến là việc đọc mục tiêu bài học- Đây là việc đầu tiên của học sinh phải biết mình làm cái gì trong bài học này. Hoạt động cơ bản là quá trình tự trải nghiệm, nghiên cứu tài liệu, bắt đầu từ cá nhân và trao đổi trong nhóm. Đặc trưng phương pháp dạy học hợp tác nhóm là học sinh trước hết phải làm việc cá nhân để có ý kiến riêng của mình, sau đó nói với nhau, đưa ra ý kiến của mình và lắng nghe ý kiến của các bạn để hoàn thiện thêm ý kiến của bản thânDo vậy, học sinh được tạo nhiều cơ hội hơn để diễn đạt, mở rộng suy nghĩ và rèn luyện kĩ năng nói, từ đây kĩ năng giao tiếp sẽ phát triển. . Trong giờ học, giáo viên tổ chức cho các nhóm trưởng điều khiển nhóm mình hoạt động. Dưới sự điều hành của nhóm trưởng, các nhóm nghiêm túc học bài và hăng hái thảo luận mỗi khi có chủ đề đưa ra. Chính vì vậy, người giáo viên phải “tập huấn” nhóm trưởng về cách điều khiển hoạt động nhóm, Nhóm trưởng phải biết phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong nhóm sao cho tất cả các bạn đều tham gia hoạt động, đều được thể hiện, được bày tỏ ý kiến. Tránh hiện tượng học sinh ngồi nói chuyện hoặc không chịu khó suy nghĩ mà chỉ trong chờ vào giáo viên và các bạn. Đặc biệt, giáo viên phải biết huy động những học sinh học tốt trong lớp để giúp mình hướng dẫn, hỗ trợ và kiểm tra đánh giá bạn. Ví dụ: Một số câu hỏi khuyến khích các thành viên trong nhóm tham gia thảo luận như: Bạn nghĩ thế nào về điều này? Ai đồng ý? Ai không đồng ý? Vì sao? Các bạn khác nghĩ thế nào? Bạn cho chúng tôi biết ý kiến của bạn đi! Tôi không biết. Bạn nghĩ sao? Để đạt được các câu hỏi trên nhằm nuôi dưỡng cuộc thảo luận, đòi hỏi học sinh phải được thực hành rất nhiều. Nhưng các em sẽ biết cách sử dụng các câu hỏi rất nhanh nếu được giáo viên làm mẫu và thường xuyên khuyến khích các em. Cũng có thể trong thời gian đầu, giáo viên viết câu hỏi lên bảng để học sinh thực hành và làm quen khi thảo luận nhóm. Với cách làm đó, tôi không còn bắt gặp hình ảnh cả lớp ngồi im lặng nghe thầy cô giảng bài nữa, mà thay vào đó là những nhóm học sinh ngồi thảo luận và làm bài tập trong tài liệu theo yêu cầu. Qua đó, phát huy tính tích cực, chủ động, ý thức tự học, tự giải quyết vấn đề và tinh thần hợp tác chia sẻ của học sinh. Học sinh ngày càng mạnh dạn, tự tin hơn nhiều. Không khí học tập của học sinh rất sôi nổi và thoải mái. 3.3. Huy động sự tham gia hưởng ứng và hỗ trợ của phụ huynh học sinh. Ngay từ đầu năm học tôi đã chủ động tuyên truyền đến phụ huynh học sinh về mô hình trường học mới VNEN, việc trang trí lớp được phụ huynh nhiệt tình chia sẻ, đồng thuận về cách làm và hỗ trợ trang trí lớp học. Xung quanh lớp học được trang bị các phương tiện hỗ trợ học tập như: Góc học tập của em, Thư viện của em, hộp thông tin “Những điều em muốn nói”, bảng thông tin “Ngày vui đến trường”, bảng “10 bước học tập” , bảng “Nội quy lớp học” , “Hộp thư bè bạn” tất cả đã tạo nên một không gian và môi trường học tập thân thiện. Góc học tập là nơi để các đồ dùng học tập của học sinh và các vật dụng để làm đồ dùng trực quan trong các môn học. Các vật dụng này không cố định mà được thay đổi, linh động theo kế hoạch dạy học. Tôi huy động cả học sinh và phụ huynh tham gia chuẩn bị các đồ dùng học tập để góc học tập trở nên phong phú và phục vụ tốt cho việc học của các em. Đây là nơi trưng bày những sản phẩm học tập, những bài văn hay, những trang vở đẹp của học sinh. Ngoài ra, trong mỗi bài học của các em không chỉ có phần lĩnh hội kiến thức mới, mà còn có phần để các em thực hành kiến thức và ứng dụng ( Hoạt động ứng dụng). Cộng đồng chính là nơi trẻ sinh sống, nơi trẻ ứng dụng nhiều điều đã được học tập, là nơi cung cấp nhiều nguồn thông tin nhất. Do đó rất cần sự tham gia, đồng hành của các bậc phụ huynh trong việc giáo dục toàn diện cho con em mình. Vì vậy, việc tổ chức các tiết dạy mẫu, hướng dẫn cách tổ chức tự học ở nhà cho các em đến với phụ huynh học sinh luôn được tôi quan tâm và tiến hành ngay từ đầu năm học, tôi giới thiệu với phụ huynh những việc có thể làm để giúp trẻ liên hệ bài học với thực tế cuộc sống như: - Lắng nghe trẻ chia sẻ những điều trẻ được học từ trường. - Yêu cầu trẻ chia sẻ vắn tắt phần ứng dụng của bài học mà trẻ cần hoàn thành. - Hướng dẫn trẻ hoàn thành phần ứng dụng của bài học để chuẩn bị cho buổi học ngày hôm sau. - Chia sẻ với trẻ những kinh nghiệm, hiểu biết của mình có liên quan đến nội dung, chủ đề mà trẻ quan tâm, thích thú. - Động viên, khuyến khích việc học tập của trẻ. - Cung cấp kinh nghiệm, sản vật truyền thống ở địa phương để đưa vào nội dung bài học. Ở mô hình VNEN, sự hỗ trợ của phụ huynh không chỉ dừng lại ở việc đóng góp hỗ trợ về kinh phí hay trang trí lớp học mà cần hình thành thói quen "làm bạn cùng con" trong việc học, nhất là việc hỗ trợ các con giải quyết các bài tập ứng dụng. Qua đó nhằm nâng kỹ năng quản lý, xử lý tình huống, phát huy phẩm chất và năng lực cá nhân trong từng em học sinh. 3.4. Tìm hiểu quy trình 5 bước của một giờ học theo mô hình VNEN 3.4.1 Gợi động cơ, tạo hứng thú ( bước khởi động) - Kết quả cần đạt: + Kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú của học sinh về chủ đề sẽ học; học sinh cảm thấy vấn đề nêu lên rất gần gũi với mình. + Không khí lớp học vui, tò mò, chờ đợi, thích thú. - Cách làm: đặt câu hỏi; đố vui; kể chuyện; đặt một tình huống; tổ chức trò chơi có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ, hoặc cá nhân từng học sinh. Ví dụ: Hát bài hát “Quê hương tươi đẹp” khi học bài “Gắn bó với quê hương” hoặc cho học sinh tham gia trò chơi “Hát với nhau” - bài hát phải có tên một loài thực vật hoặc động vật trước khi vào bài “Thế giới thực vật và động vật quanh em” ( Tự nhiên và Xã hội lớp 3) 3.4.2. Tổ chức cho học sinh trải nghiệm - Kết quả cần đạt: + Huy động vốn hiểu biết, kinh nghiệm có sẵn của học sinh để chuẩn bị học bài mới. + Học sinh trải qua tình huống có vấn đề, trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức, những thao tác, kỹ năng để làm nảy sinh kiến thức mới. - Cách làm: Tổ chức các hình thức trải nghiệm gần gũi với học sinh. Có thể thực hiện với toàn lớp, nhóm nhỏ hoặc cá nhân từng học sinh. Ví dụ 1: Bài 22C: Để thành người sáng tạo ( tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt- Tập 2A) - Hoạt động 1: Đọc tên những cây cầu trong hình – học sinh quan sát nêu tên các cây cầu có trong hình và tìm thêm tên các cây cầu khác trước khi chuyển sang hoạt động đọc và tìm hiểu bài đọc “Cây cầu”- Đây là một trải nghiệm cần thiết, thu hút sự chú ý của học sinh, tạo sự gắn kết các nội dung bài học. Ví dụ 2: Với bài “Ôn tập các bảng nhân và bảng chia” ( tài liệu Hướng dẫn học Toán lớp 3 trang 15), trước khi vào tiết học, giáo viên tổ chức học sinh tham gia trò chơi “ Kết bạn”. Các em sẽ biết nếu “kết 4” mà lớp mình có 32 bạn thì sẽ thành lập được 8 nhóm, nếu “kết 5” thì lớp mình sẽ thành lập được 6 nhóm và dư 2 bạn. Thông qua trò chơi, học sinh sẽ cảm thấy trò chơi mình tham gia rất vui, rất gần gũi bản thân, trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới. 3.4.3. Phân tích- khám phá- Rút ra kiến thức mới - Kết quả cần đạt: + Huy động vốn hiểu biết, khái niệm hay quy tắc lý thuyết, thực hành mới. + Nếu là một dạng toán mới thì học sinh phải nhận biết được dấu hiệu, đặc điểm và nêu được các bước giải dạng toán này. Ví dụ: Với bài toán: “Lan có 35 quyển vở, số vở của chị nhiều hơn Lan 12 quyển . Hỏi cả hai chị em có bao nhiêu quyển vở? Học sinh nhận biết được: Phép tính thứ nhất: Tìm số vở của chị ( từ khóa “nhiều hơn”); Phép tính thứ hai: Tìm số vở của cả hai chị em ( từ khóa “cả hai”). - Cách làm: Dùng các câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh thực hiện tiến trình phân tích và rút ra bài học. Có thể sử dụng các hình thức thảo luận cặp đôi, thảo luận theo nhóm nhằm kích thích tính tò mò, sự ham thích tìm tòi, khám phá, phát hiện của học sinh. 3.4.4. Thực hành - Kết quả cần đạt: + Học sinh nhớ dạng cơ bản một cách vững chắc; làm các bài tập áp dụng dạng cơ bản theo đúng quy trình. + Học sinh biết chú ý tránh những sai lầm điển hình thường mắc trong giải các dạng cơ bản. - Cách làm : + Thông qua việc giải các bài tập rất cơ bản để học sinh rèn luyện việc nhận dạng, áp dụng các bước giải và công thức cơ bản (đối với môn Toán). Giáo viên quan sát, giúp học sinh nhận ra những khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. + Có thể giao bài tập cho cả lớp, cho từng cá nhân hoặc theo nhóm, theo cặp 3.4.5. Vận dụng - Kết quả cần đạt: + Học sinh củng cố, nắm vững nội dung kiến thức đã học. + Vận dụng được kiến thức đã học trong hoàn cảnh mới, đặc biệt những tình huống gắn với thực tế đời sống hằng ngày. + Cảm thấy tự tin khi lĩnh hội và vận dụng kiến thức mới. - Cách làm: + Học sinh vận dụng từng phần, từng đơn vị kiến thức cơ bản của nội dung bài đã học. + Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ, cách hiểu của chính em. Khuyến khích học sinh tập phát biểu, tập diễn đạt bước đầu có lý lẽ, có lập luận. Ví dụ: Khi học bài “Chăm sóc cây trồng, vật nuôi”- HĐGD Đạo đức (Tiết 2)- Ở hoạt động nối tiếp để vận dụng kiến thức và khuyến khích học sinh diễn đạt – Tôi tổ chức cho Ban học tập chia sẻ nội dung:“Bạn đã làm gì để chăm sóc cây trồng, vật nuôi? Hãy viết vào giấy và đặt vào hộp thư bè bạn để chia sẻ cùng các bạn”. Qua hoạt động học sinh được tạo nhiều cơ hội hơn để diễn đạt, mở rộng suy nghĩ và rèn luyện kĩ năng viết. 3.5. Tìm hiểu việc điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học, lựa chọn hình thức tổ chức dạy học phù hợp hoàn cảnh và đặc điểm của học sinh. Tài liệu dạy và học trong mô hình trường học mới được gọi là tài liệu “3 trong 1”. Vì tài liệu “Hướng dẫn học” thay thế 3 loại sách: Sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập. Tài liệu thể hiện sự tương tác giữa học sinh, giáo viên và cha mẹ học sinh, cộng đồng. Học sinh tích cực, tự giác, hứng thú trong việc khai thác tài liệu, sử dụng đồ dùng học tập, hướng dẫn các hoạt động ứng dụng sau mỗi bài học, giúp các em biết vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, thấy rõ lợi ích thiết thực những điều được học đối với bản thân, gia đình, cộng đồng. Cha mẹ học sinh cũng đã biết con học gì, học như thế nào, từ đó giúp con nhiều hơn trong việc liên hệ, ứng dụng kiến thức đã học vào cuộc sống . Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện bản thân và các đồng nghiệp nhận thấy những nội dung, hình thức trong tài liệu chưa thích ứng với hoàn cảnh dạy học và đặc điểm học sinh. Vì vậy việc điều chỉnh tài liệu VNEN là cần thiết vừa làm cho chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục tốt hơn, vừa nâng cao năng lực nghiên cứu sư phạm, ý thức chủ động, sáng tạo của mỗi giáo viên- người trực tiếp sử dụng tài liệu. Việc điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học phải đảm bảo yêu cầu về chuẩn kiến thức và kĩ năng; phù hợp với học sinh; phù hợp với năng lực của giáo viên và các điều kiện của địa phương; phù hợp nguyên tắc, cấu trúc tài liệu theo mô hình VNEN. Cần xây dựng bảng tiêu chí cho việc điều chỉnh tài liệu VNEN. Giáo viên nên phân tích tài liệu theo những tiêu chí này và tạo ra các thay đổi cần thiết trước khi học sinh được đọc tài liệu hướng dẫn học. Như vậy, các hướng dẫn của giáo viên sẽ phù hợp với môi trường và nhu cầu của học sinh, quá trình giáo dục sẽ cuốn hút học sinh tham gia một cách tích cực hơn. Giáo viên tổ chức linh hoạt các hoạt động học tập của học sinh, giáo viên phải dựa vào đối tượng học sinh và thực tế của lớp học để lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Ví dụ 1: Đối với bài “Chia số có hai chữ số cho số có một chữ số” Hướng dẫn học Toán 3 quyển 1B. Ở hoạt động 3 hoạt động cơ bản với logo làm việc cá nhân. Đây là tiết học đầu tiên trong phần chia, tôi hướng dẫn các em ước lượng thương. Giáo viên quan sát, theo dõi và hỗ trợ cho học sinh, nếu thấy nhiều học sinh trong lớp không làm được thì tôi linh động tổ chức dạy học cả lớp để hướng dẫn kĩ hơn cách ước lượng thương, sau đó mới cho các em tiếp tục thực hành. Ví dụ 2: Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 3 – Tập 2B Bài 28C: Vui chơi có những lợi ích gì? A. Hoạt động cơ bản Hoạt động 1: Logo nhóm- cần chỉnh logo hoạt động chung cả lớp. Vì yêu cầu của hoạt động là cả lớp hát một bài về vui chơi hoặc thể thao. Ví dụ 3: Tài liệu Hướng dẫn học Tự nhiên và Xã hội lớp 3 Bài 17: Thế giới thực vật và động vật quanh em ( Tiết 2) B. Hoạt động thực hành Hoạt động 3: Ra sân trường, quan sát và ghi nhớ một số đặc điểm, hình dạng về cây cối và con vật. Với nội dung trên, tôi hướng dẫn học sinh xem đoạn video, ghi nhớ một số đặc điểm các con vật, cây cối và trình bày. Tôi không quên giáo dục và rèn kĩ năng diễn đạt của các em bằng hình thức: “Hãy viết một câu thể hiện việc em đã làm để chăm sóc và bảo vệ cây cối, con vật và đặt vào hộp thư bè bạn”. Sau đó ban học tập chia sẻ cùng các bạn nội dung trên và nêu được mong muốn của mình sau giờ học này. Sự điều chỉnh ấy bước đầu đã cho thấy hiệu quả: giờ học sinh động, hình ảnh phong phú đa dạng; các em tiếp thu bài một cách chủ động, tự tin trình bày ý kiến của riêng mình, phát triển kĩ năng giao tiếp thông qua việc chia sẻ nội dung học tập, 4. Kết quả chuyển biến: Với thực trạng đầu năm và qua những biện pháp đã áp dụng, tôi nhận thấy lớp có sự tiến bộ rõ rệt. Không khí lớp học tự nhiên, nhẹ nhàng thân thiện, hoạt động của thầy và trò đồng bộ. Học sinh tích cực tham gia xây dựng bài, học sinh lớp tôi đã tự giác hơn trong học tập, tự tin hơn trong giao tiếp, quan hệ cô- trò ngày thêm khắng khít, không còn khoảng cách, là niềm tin vững chắc nơi các em. Các em được phát huy năng lực tự học, học sinh có nhiều cơ hội độc lập suy nghĩ, bộc lộ ý kiến riêng khi làm việc cá nhân và có nhiều cơ hội phát huy năng lực hợp tác trong nhóm. Học sinh mạnh dạn hơn khi đánh giá quá trình học tập của mình và của bạn. Một số em có tính nhút nhát đã dần trút bỏ được sự tự ti và trở nên mạnh dạn, tự tin để thể hiện khả năng của bản thân mình. Cha mẹ học sinh đã hiểu được lợi ích từ mô hình này đối với con em họ và nhiệt tình hưởng ứng. Từ đó, bước đầu cho thấy được sự thành công trong việc áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy. III. KẾT LUẬN: 1. Tóm lược giải pháp: Để dạy học theo mô hình VNEN hiệu quả, giáo viên phải vừa là người thầy, vừa là người bạn của học sinh để có thể tư vấn, chia sẻ những khó khăn, vướng mắc các em cần được giải đáp. Sự ân cần, gần gũi, quan tâm đến các em trong quá trình học tập sẽ giúp các em tự tin khám phá, tự tin trong giao tiếp. Chính điều này giúp giáo viên thành công rất nhiều trong quá trình giảng dạy. Mỗi giáo viên cần trang bị cho mình những kiến thức cơ bản, có sự hiểu biết sâu sắc về các vấn đề xã hội để sẵn sàng đáp ứng mọi thắc mắc của học sinh. Điều quan trọng nhất là tấm lòng tâm huyết của giáo viên, lòng yêu thương học sinh, giúp các em có động lực để học tốt. Cần khen ngợi, khuyến khích học sinh dù là sự tiến bộ nhỏ. Vì thế, vai trò của giáo viên trong việc tổ chức dạy học theo mô hình trường học mới ( VNEN) là hết sức quan trọng, phải thay đổi thật sự, muốn vậy, người giáo viên cần chú ý một số việc sau: - Việc điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học phải đảm bảo yêu cầu về chuẩn kiến thức và kĩ năng; phù hợp với học sinh; phù hợp với năng lực của giáo viên và các điều kiện của địa phương; phù hợp nguyên tắc, cấu trúc tài liệu theo mô hình VNEN. Giáo viên hướng dẫn học sinh sử dụng tài liệu hướng dẫn học để tự học, tự khám phá; tổ chức học sinh phát hiện kiến thức, kỹ năng mới thông qua quá trình học tập mang tính hợp tác. - Trong các tiết học giáo viên cần quan sát, theo dõi, trao đổi, kiểm tra kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân, nhóm theo tiến trình dạy học. Đồng thời có những biện pháp hỗ trợ kịp thời khi các em cần sự hỗ trợ. Giáo viên cần đưa ra những đánh giá công tâm giúp học sinh tiến bộ trong mọi hoạt động. - Giáo viên cần linh hoạt lựa chọn hình thức tổ chức dạy học sao cho phát huy tính tự giác, sáng tạo của học sinh phù hợp hơn với đặc điểm của từng lớp học, môn học. - Mô hình trường học mới VNEN là “luồng gió mới” góp phần tích cực làm thay đổi tư duy trong dạy và học. Thực hiện mô hình này đòi hỏi người giáo viên thật sự kiên trì, tích cực tự học, tự bồi dưỡng, luôn quan tâm, chia sẻ, động viên học sinh để các em tự tin học tập. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh và cộng đồng để nhận được sự hỗ trợ. Với nội dung và biện pháp đã áp dụng, tôi tin tưởng vào sự đổi mới tích cực và toàn diện trong lĩnh vực giáo dục đào tạo mà mô hình “Trường học mới tại Việt Nam” mang lại. Đây đang và sẽ là tâm điểm cho những giáo viên thật sự tâm huyết, yêu nghề và tất cả vì sự tiến bộ của học sinh thân yêu. Những mầm tài năng đang cần được nuôi dưỡng và hứa hẹn nhiều triển vọng tốt đẹp trong tương lai. 2. Phạm vi đối tượng áp dụng : Đề tài áp dụng hiệu quả, thực nghiệm trên lớp mình phụ trách và được nhân rộng trong toàn khối. Áp dụng cho tất cả học sinh theo học tại các trường tiểu học đang thực hiện mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN)./. Thạnh Hóa, ngày 5 tháng 04 năm 2016 Người viết Lâm Nhất Tâm
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_vai_tro_cua_giao_vien_trong_viec_to_ch.doc