Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh Lớp 5

Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán, kĩ năng ngôn ngữ. Đồng thời qua việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu sót của các em về kiến thức, kĩ năng, tư duy để giúp học sinh phát huy những mặt đạt được và khắc phục những mặt thiếu sót.

 Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học nói chung và ở lớp 5 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải nâng cao chất lượng dạy học toán cho học sinh.

 Vì những tác dụng to lớn nói trên mà mỗi học sinh đều phải ra sức rèn luyện để giải toán cho tốt. Điều đó không những giúp các em học giỏi toán mà nó còn giúp các em học giỏi tất cả các môn học khác.

 Trong mạch kiến thức giải toán có lời văn bao gồm nhiều dạng bài: dạng toán đơn, dạng toán hợp, dạng toán điển hình, dạng toán có nội dung liên quan đến hình học,. Đa số các dạng toán đơn thì HS làm được, song các bài toán từ 2 phép tính trở lên thì đa số học sinh yếu không làm được bởi một số nguyên nhân sau:

 Kĩ năng đọc đề, phân tích đề của HS còn hạn chế.

 Kĩ năng nhận dạng toán, nắm các bước giải trong từng dạng toán còn lúng túng.

 Chưa biết lập kế hoạch giải bài toán.

 Khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hoá vấn đề còn nhiều hạn chế.

 Kĩ năng đặt lời giải, kĩ năng tính toán của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.

 Học sinh chưa được luyện tập thường xuyên, nên thường nhầm lẫn giữa các dạng toán.

 Đa số giải toán có lời văn thường tập trung ở các đối tượng học sinh khá giỏi nên thói quen của các đối tượng học sinh trung bình và yếu là bỏ qua các bài toán giải hoặc làm cho có, không có động não suy nghĨ.Từ thói quen lười suy nghĩ dẫn đến hiệu quả thấp.

 

docx18 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 14/01/2025 | Lượt xem: 88 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1
 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 BÁO CÁO
 Kết quả hoạt động sáng kiến
 Kính gửi: Hội đồng sáng kiến cấp cơ sở huyện Lục Yên
 I. THÔNG TIN CHUNG
 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kỹ năng giải bài toán có lời văn cho 
 học sinh lớp 5”
 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo duc Tiểu học
 2. Phạm vi của sáng kiến: 
 3. Thời gian áp dụng sáng kiến: 
 4. Tác giả:
 - Họ và tên:..Nam (nữ).
 - Năm sinh:.
 - Trình độ chuyên môn: - Điện thoại:..Email.
 - Chức vụ, đơn vị công tác:
 - Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:.......%
 5. Đồng tác giả (nếu có)
 - Họ và tên:..Nam (nữ).
 - Năm sinh:..
 - Trình độ chuyên môn: - Điện thoại:..Email..
 - Chức vụ, đơn vị công tác:..
 - Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến:.............%
 II. NỘI DUNG
 1. Thực trạng của giải pháp đã biết 
 Trong chương trình môn Toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan 
trọng. Thông qua việc giải toán, các em thấy được nhiều khái niệm toán học. Qua việc 
giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy, tính cẩn thận, óc sáng tạo, cách lập 
luận bài toán trước khi giải, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính 3
 - Các bài toán về quan hệ tỉ lệ.
 - Toán về tỷ số phần trăm. 
 - Toán về chuyển động đều.
 - Bài toán có nội dung hình học.
 Qua thực tế tôi thấy rằng kĩ năng giải Toán có lời văn của học sinh còn nhiều lúng 
túng, đặc biệt là cách tìm ra hướng giải và câu trả lời cho phép tính chưa nhanh và chưa 
chính xác. Điều này đã làm mất thời gian trong các giờ học và không tạo được hứng thú 
học toán cho học sinh.
 *Về phía giáo viên.
 - Hầu hết giáo viên chưa nắm bắt đầy đủ tổng thể mạch kiến thức giải toán có lời 
văn lớp 1->5 nên không nắm được mối quan hệ giữa các kiến thức học sinh đã biết và 
chưa biết nên hiệu quả dạy học chưa cao.
 - Việc sử dụng các phương pháp, hình thức và phương tiện tiện thiết bị đồ dùng 
dạy học khi Giải toán có lời văn còn nhiều hạn chế. Đa số giáo viên chỉ truyền đạt, giảng 
giải theo các tài liệu có sẵn trong sách giáo khoa, sách giáo viên (Hướng dẫn giảng dạy). 
Vì vậy, giáo viên thường làm việc một cách máy móc, ít quan tâm đến việc phát huy khả 
năng sáng tạo của học sinh. Chưa thực sự là người tổ chức hướng dẫn giờ học để học 
sinh chủ động chiếm lĩnh tri thức, với những hình thức tổ chức như thế đã ảnh hưởng 
đến quá trình tiếp thu kiến thức mới của các em, dẫn đến việc học sinh giải toán một 
cách máy móc thiếu tư duy khoa học và sáng tạo.
 - Chưa tự chủ điều chỉnh nội dung, dữ liệu, yêu cầu bài toán cho phù hợp tình hình 
thực tế của địa phương và đối tượng học sinh, làm cho một số bài toán thiếu tính thực tế 
và vận dụng.
 - Việc sử dụng các phương pháp, kĩ thuật đánh giá học sinh theo Thông tư 22 sửa 
đổi của Bộ Giáo dục chưa thành thạo, linh hoạt, chưa động viên khích lệ học sinh trong 
học tập và rèn luyện.
 *Về phía học sinh:
 - Năng lực nắm bắt kiến thức, khả năng tư duy, lập luận, nhận dạng toán, xác định 
bước giải, trình bày lời giải, phép tính, khả năng tính toán, xác định đơn vị đo lường, 
trình bày bài giải, khả năng phán đoán, liên hệ bài toán với thực tế... khi học giải toán có 
lời văn còn nhiều hạn chế. Các em nắm chưa vững cấu trúc, cách giải của bài toán, chưa 
thực sự sáng tạo để đưa ra cách giải tốt nhất cho mình dẫn tới năng lực vốn có của cá 
nhân các em ít có cơ hội phát triển. Vì vậy việc tìm ra các dữ kiện của bài toán rất khó 
khăn.
 - Năng lực hợp tác, tự học, tự đánh giá khi làm bài toán giải toán có lời văn chưa 
thành thạo, hiệu quả chưa cao.
 - Chưa hứng thú khi học bài, làm bài toán giải toán có lời văn. 5
 thành công của dạy và học môn toán, do đó người giáo viên phải xác định rõ mục tiêu 
 của việc dạy giải các bài toán có lời văn và cần phải đạt được các tri thức, kĩ năng sau 
 :
 Mục tiêu 1: Học sinh nhận biết “cái đã cho” và “cái phải tìm” trong mỗi bài toán, 
mối quan hệ giữa các đại lượng có trong mỗi bài toán, chẳng hạn: Khi dạy toán về 
chuyển động đều thì mối quan hệ đó thể hiện ở quãng đường đi bằng tích của vận tốc với 
thời gian đi đường.
 Mục tiêu 2: Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp 
giữa các đại lượng thông dụng.
 Mục tiêu 3: Học sinh giải được một số bài toán điển hình được hình thành từ lớp 4 
đến lớp 5 như sau : 
 * Tìm số trung bình cộng của hai số hoặc nhiều số.
 * Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
 *Tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỉ số.
 * Giải toán về tỉ số phần trăm.
 * Bài toán cơ bản về chuyển động đều cùng chiều (hoặc ngược chiều)
 * Giải toán có nội dung hình học
 Mục tiêu 4: Học sinh biết trình bày bài giải đúng quy định theo yêu cầu bài toán.
 2.2.Nội dung sáng kiến 
 Biện pháp1: Hình thành kỹ năng đọc, phân tích, nhận dạng các bài toán.
 1. Cho học sinh nhận biết các yếu tố của bài toán 
 a) Cho học sinh nhận biết nguồn gốc thực tế và tác dụng phục vụ thực tiễn cuộc sống 
của bài toán. Ví dụ: Cần tính năng suất lúa trên một diện tích đất trồng; tính bình quân 
thu nhập hàng tháng theo đầu người hay gia đình em (Toán 5 trang 167,....)
 b) Cho học sinh nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các đại lượng trong bài toán. Ví dụ: 
Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh dựa vào “cái đã cho”, “cái phải tìm” và mối 
quan hệ giữa các đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian để tìm đại lượng chưa biết.
 c) Tập cho học sinh biết xem xét các đối tượng toán học và tập diễn đạt các kết luận 
dưới nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ : “số bạn trai bằng 1/2 số bạn gái” cũng có nghĩa 
là “số bạn gái gấp 2 lần số bạn trai”; “đáy nhỏ bằng 1/3 đáy lớn” cũng có nghĩa là “đáy 
lớn gấp 3 đáy nhỏ”.
 2. Phân loại bài toán có lời văn 
 Để giải được bài toán thì học sinh phải hiểu đề bài, hiểu các thành phần của nó. 
Những cái đã cho và những cái cần tìm thường là những số đo đại lượng nào đấy được 
biểu thị bởi các phép tính và các quan hệ giữa các số đo. Dựa vào đó mà có thể phân loại 
các bài toán. 7
 Ví dụ 2: Để hút hết nước ở một cái hồ, phải dùng 3 máy bơm làm việc liên tục trong 
4 giờ. Vì muốn công việc hoàn thành sớm hơn nên người ta đã dùng 6 máy bơm như thế. 
Hỏi sau mấy giờ sẽ hút hết nước ở hồ? (Sách Toán 5 trang 21)
 Đối với học sinh, khi giải 2 bài toán này, giáo viên luôn chú ý hỏi xem bài toán 
thuộc dạng nào? (quan hệ tỉ lệ), giải bằng cách nào trong hai cách đã học (cách “rút về 
đơn vị” hoặc “tìm tỉ số”). Nếu học sinh khá, giỏi, giáo viên có thể yêu cầu giải bài tập ở 
ví dụ 2, bằng 2 cách. Việc tìm ra nhiều cách giải khác nhau sẽ giúp học sinh có dịp so 
sánh các cách giải đó, chọn ra được cách hay hơn và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm để 
giải toán. Quá trình tìm tòi những cách giải khác nhau của bài toán cũng là quá trình rèn 
luyện trí thông minh, óc sáng tạo và khả năng suy nghĩ linh hoạt cho học sinh.
 Như vậy, sự phân loại theo phương pháp giải chính là sự phân loại theo mối quan 
hệ giữa những “cái đã cho” và những “cái cần tìm” trong bài toán.
 Biện pháp2: Hình thành và phát triển các năng lực quan sát, ghi nhớ, tưởng 
tượng, tư duy qua các bài toán 
 1. Dạy học sinh biết quan sát các mô hình, sơ đồ, từ đó cũng dễ dàng tìm ra cách 
giải.
 Ví dụ: Lớp học có 34 học sinh, số học sinh nữ nhiều hơn số học sinh nam là 6 em. 
Hỏi có bao nhiêu học sinh nam? Bao nhiêu học sinh nữ ? (dạng toán “Tìm hai số khi biết 
tổng và hiệu của hai số đó” ).
 Ta có thể diễn đạt bằng một trong các sơ đồ sau:
 * Sơ đồ : ?
 Nam 
 6 34 học sinh
 Nữ 
 2. Tập cho học sinh có năng lực ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ máy móc để học 
thuộc và nắm vững các quy tắc, công thức, chẳng hạn như: Muốn so sánh hai số thập 
phân hay muốn cộng (trừ, nhân, chia) một số thập phân với một số thập phân, . . . công 
thức tính chu vi, diện tích, thể tích các hình đã học, . . .
 3. Phát triển trí tưởng tượng của học sinh qua các bài toán có lời văn: Ví dụ: Ở bài 
toán về chuyển động đều cùng chiều, khi 2 đối tượng chuyển động đuổi kịp nhau thì học 
sinh phải biết được là đối tượng có vận tốc lớn hơn đã đi hơn đối tượng có vận tốc nhỏ 
một khoảng cách đúng bằng khoảng cách ban đầu của hai đối tượng chuyển động.
 4. Tập cho học sinh quen với các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh, trừu 
tượng hoá, khái quát hóa, cụ thể hóa. 
 Học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ, hình vẽ là dịp để kết hợp các thao tác trừu 
tượng hoá và cụ thể hoá. Trong quá trình giải bài tập, học sinh phải vận dụng một cách 9
 * Rèn luyện tính chính xác trong diễn đạt.
 * Rèn luyện ý thức vượt khó khăn trong học tập.
 Để có được những phẩm chất nói trên, học sinh cần phải lập ra thời gian biểu học 
tập, sinh hoạt ở nhà. Đối với bài toán khó, giáo viên cần động viên khuyến khích các em 
tự lực vượt khó, không nản, không chép bài của bạn. Ngoài ra, giáo viên phải xây dựng 
nhóm học tập “đôi bạn cùng tiến” tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ 
các bạn còn yếu về cách học tập, củng cố lại kiến thức trước các giờ học và vào thời gian 
rảnh tại nhà. Kết quả học tập được giáo viên theo dõi để giúp đỡ và uốn nắn kịp thời.
3. Các bước thực hiện dạy Toán có lời văn ở lớp 5.
 * Bước 1: Đọc kỹ đề toán.
 Có đọc kỹ đề học sinh mới tập trung suy nghĩ về ý nghĩa, nội dung của bài toán và 
đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Từ đó rèn cho học sinh thói quen chưa hiểu đề toán 
thì chưa tìm cách giải.
 * Bước 2: Phân tích- tóm tắt đề toán:
 Bài toán cho ta biết gì? Hỏi gì? (tức là yêu cầu gì)? 
 Đây chính là trình bày lại một cách ngắn gọn phần đã cho và phần phải tìm của bài 
toán được thể hiện dưới dạng câu văn ngắn gọn hoặc dưới sơ đồ các đoạn thẳng.
 * Bước 3: Tìm cách giải bài toán
 Thiết lập trình tự giải, lựa chọn phép tính thích hợp.
 * Bước 4: Trình bày bài giải.B
 Trình bày lời giải (nói- viết) phép tính tương ứng, đáp số, kiểm tra lời giải (khi giải 
xong cần thử lại xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi bài toán, có phù hợp với 
điều kiện của bài toán không? )- trong một số trường hợp, nên thử xem có cách giải khác 
gọn hơn, hay hơn không?
4. Hướng dẫn cụ thể cách giải một số dạng Toán có lời văn lớp 5.
 * Dạng Toán về chuyển động.
 Để giả được giạng toán này học sinh phải vận dụng các công thức theo sơ đồ sau: 
 v = s : t
 s = v x t t = s : v
 v = vận tốc ; s = quãng đường ; t = thời gian
 Như vậy, khi biết hai trong ba đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian ta có thể 
tính được đại lượng thứ ba nhờ các công thức trên.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_giai_bai.docx
Sáng Kiến Liên Quan