Sáng kiến kinh nghiệm Một số biên pháp giáo dục đạo đức cho học sinh Lớp 1
Nội dung lý luận về vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1:
Trong công cuộc đổi mới hiện nay khi yếu tố con người được đặc biệt coi trọng, thì tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần đạo đức của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Việc nâng chất lượng và hiệu quả đạo đức cho học sinh là đòi hỏi, thường xuyên liên tục trong công tác giáo dục "Trồng người".
Giáo dục đạo đức cho học sinh làm cho các em phát triển đúng về mặt đạo đức. Taọ cơ sở cho các em biết cư xử, và ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của bản thân với bạn bè, người khác ngay từ khi mới bước vào lớp 1. Với độ tuổi "non nớt" đó thì việc giáo dục đạo đức càng được quan tâm và kỹ lưỡng hơn của từng giáo viên đối với học sinh. Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức là học sinh có những phẩm chất tốt đẹp và bền vững để ứng xử tốt trong các mối quan hệ xã hội.
Như Bác Hồ đã dạy "Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức vì : Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Chính vì thế đức và tài luôn luôn phải song song với nhau.
Vậy làm thế nào để học sinh có được những phẩm chất tốt đẹp đó. Nhất là trong trào lưu xã hội hiện nay. Đây chính là một vấn đề quan trọng đặt ra cho mọi người giáo viên. Trong công tác giảng dạy đòi hỏi giáo viên phải có những kinh nghiệm, các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với điều kiện của địa phương để phát huy được khả năng nhận thức của học sinh và giúp các em hiểu rằng bằng các hoạt động học tập – vui chơi sinh hoạt của mình để tự hình thành con người có ích cho xã hội, là người chủ nhân tương lai của đất nước.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: 1. Lý do chọn đề tài: Giáo dục đạo đức là một trong những mục tiêu giáo dục hàng đầu trong nhà trường tiểu học. Nhưng thực tế, một số giáo viên còn xem nhẹ, dạy lướt qua khi học sinh học đến môn này. Nhiều học sinh có thái độ, hành vi ứng xử chưa phù hợp với chuẩn mực đạo đức khi cùng học, cùng chơi với bạn, khi giao tiếp với người lớn hoặc nhỏ tuổi hơn mình. Vì vậy tôi chọn đề tài : “ Một số biên pháp giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1” để nghiên cứu, giáo dục, nhằm giúp cho học sinh lớp tôi chủ nhiệm có kĩ năng, thái độ lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, trong sinh hoạt cuộc sống hằng ngày. 2. Mục đích nghiên cứu: Nhằm giúp học sinh lớp 1 có hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện theo các chuẩn mực đạo đức đó. Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thản và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng sử phù hợp với chuẩn mực trong các quan hệ tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống; biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cá đúng, cái tốt; không đồng tình với cái ác, cái xấu, cái sai. 3. Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh; đối tượng là giáo viên và học sinh trường Tiểu học số 2 Hoài Tân nói chung và học sinh lớp 1 A do tôi chủ nhiệm nói riêng. 4. Đối tượng khảo sát và thực nghiệm: Lớp 1A trường Tiểu học số 2 Hoài Tân. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Tôi quan sát việc dạy của giáo viên và việc học của học sinh ở trường, tôi thấy những hành vi đạo đức của học sinh chưa tốt, khả năng giải quyết tình huống đạo đức của học sinh chưa đúng, chẳng hạn: Mượn thước của bạn dùng nhưng không nói cảm ơn bạn. Hoặc có hướng giải quyết đúng nhưng chưa trọn vẹn hành vi ứng xử tốt. Ví dụ: Em A làm rơi hộp bút của bạn chỉ nói xin lỗi bạn mà không nhặt hộp bút lên cho bạn. - Quan sát trong giờ ra chơi, tôi thấy một số em có tính nghịch ngợm, đánh bạn, gọi bạn là “mày”, xô đẩy chen lấn nhau khi đi xuống cầu thang, chơi không hòa đồng, ví dụ: thích chơi với bạn học tốt, nhà giàu, không chơi với bạn nhà nghèo, học yếu. - Quan sát cách ứng xử giữa phụ huynh và học sinh khi đưa đón con đi học, học sinh có hành vi đạo đức chưa tốt nhưng phụ huynh không khuyên bảo con, dạy dỗ con đến nơi đến chốn, chẳng hạn: Mẹ đưa cho con hộp sữa, con cầm bằng một tay, không nói gì và đi thẳng vào lớp học. Từ đó tôi đưa ra biện pháp khắc phục trong quá trình giảng dạy từng bài Đạo đức, có liên hệ thực tế, đưa ra nhiều tình huống mà các em thường gặp trong cuộc sống hằng ngày, để học sinh định hướng giải quyết tốt các tình huống theo đúng hành vi chuẩn mực đạo đức hoặc giáo dục học sinh ngay lúc học sinh có hành vi ứng xử không tốt. 6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu: Tôi bắt đầu nghiên cứu đề tài giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 từ năm học 2014 – 2015 và áp dụng vào giáo dục đạo đức cho học sinh năm học 2015 – 2016 và học kì 1 năm học này. Tôi thấy rất khả quan, học sinh nhớ những cách ứng xử, biết giải quyết tốt các tình huống theo đúng hành vi chuẩn mực đạo đức. II. NỘI DUNG: 1. Nội dung lý luận về vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1: Trong công cuộc đổi mới hiện nay khi yếu tố con người được đặc biệt coi trọng, thì tiềm năng trí tuệ cùng với sức mạnh tinh thần đạo đức của con người càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực xã hội. Việc nâng chất lượng và hiệu quả đạo đức cho học sinh là đòi hỏi, thường xuyên liên tục trong công tác giáo dục "Trồng người". Giáo dục đạo đức cho học sinh làm cho các em phát triển đúng về mặt đạo đức. Taọ cơ sở cho các em biết cư xử, và ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của bản thân với bạn bè, người khác ngay từ khi mới bước vào lớp 1. Với độ tuổi "non nớt" đó thì việc giáo dục đạo đức càng được quan tâm và kỹ lưỡng hơn của từng giáo viên đối với học sinh. Kết quả của quá trình giáo dục đạo đức là học sinh có những phẩm chất tốt đẹp và bền vững để ứng xử tốt trong các mối quan hệ xã hội. Như Bác Hồ đã dạy "Dạy cũng như học, phải chú trọng cả tài lẫn đức vì : Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Chính vì thế đức và tài luôn luôn phải song song với nhau. Vậy làm thế nào để học sinh có được những phẩm chất tốt đẹp đó. Nhất là trong trào lưu xã hội hiện nay. Đây chính là một vấn đề quan trọng đặt ra cho mọi người giáo viên. Trong công tác giảng dạy đòi hỏi giáo viên phải có những kinh nghiệm, các phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh, phù hợp với điều kiện của địa phương để phát huy được khả năng nhận thức của học sinh và giúp các em hiểu rằng bằng các hoạt động học tập – vui chơi sinh hoạt của mình để tự hình thành con người có ích cho xã hội, là người chủ nhân tương lai của đất nước. 2. Thực trạng vấn đề giáo dục đạo đức cho học sinh: 2.1 Ở nhà trường: a) Giáo viên: - Quan niệm của một số giáo viên chủ nhiệm cho rằng, môn Đạo đức là dễ dạy, dễ nói chỉ cần lướt qua là đủ. Thực sực không chú trọng, mà thường quan tâm và chú trọng nhất ở hai môn Toán và Tiếng việt . Chính vì thế mà rèn luyện đạo đức đúng cho học sinh thông qua môn học Đạo đức hay bị xem nhẹ. Một số giáo viên còn lúng túng khi xây dựng thiết kế tiết "Luyện tập – thực hành đạo đức (tiết 2)". Nên giờ dạy không được đảm bảo, cách truyền thụ đạo đức còn khô khan, rời rạc, không lôi cuốn học sinh tích cực học tập. b) Đối với học sinh: - Đa số học sinh của lớp đều là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên họ ít chú trọng đến việc học tập và rèn luyện hành vi đạo đức cho con em mình chỉ cần đến trường để biết đọc, biết viết là được. - Khi đến trường, các em được thầy cô dạy bảo điều đầu tiên là "lễ phép", "kính trên nhường dưới, gọi dạ bảo vâng", không nói tục, chửi bậy. Xong ở nhà trường thì vậy, còn ở gia đình và xã hội thì sao? Vì thế cho nên việc dạy và giáo dục đạo đức cho học sinh phải biết kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 2.2. Ở gia đình. Vì công việc gia đình nên phụ huynh thường giao hẳn cho thầy cô, nhà trường và ít quan tâm đến việc giáo dục con cái. Ví dụ: Có những phụ huynh hay phàn nàn với cô giáo chủ nhiệm rằng "Cháu còn chưa ngoan, hay nghịch, mải chơi, không nghe lời bố mẹ, hay nói tục, chửi thề Vì vậy nhờ cô, nhờ thầy khuyên bảo cháu giúp tôi. Đây là một vấn đề thật quan trọng trong gia đình. Nếu vấn đề này không được giáo dục kịp thời thì ngay từ khi còn nhỏ. Thì chắc chắn dần dần các em hình thành nên những hành vi không tốt dẫn đến phải giáo dục. Bên cạnh đó có nhiều phụ huynh có quan tâm đến việc giáo dục đạo đức cho con em mình. Xong kết quả còn hạn chế do bận bịu với công việc gia đình, còn thiếu kinh nghiệm và các kĩ năng cần thiết trong việc giáo dục con cái. Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức phải thường xuyên học tập trao đổi để nâng cao trình độ về kiến thức. Cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong công tác giáo dục. 2.3. Thực tiễn ngoài xã hội. Trong giai đoạn hiện nay chuẩn mực đạo đức có phần bị lơ lỏng. Những hành vi, thói quen đạo đức xấu diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Đối với học sinh việc bắt chước thì rất nhanh vì sự nhận thức của các em còn hạn chế. Vậy sự nhận thức hiểu biết của các em không còn bó hẹp trong nhà trường mà còn ảnh hưởng nhiều của xã hội. Nếu ảnh hưởng của người lớn tốt hay xấu thì các em có thể nhận ra để học tập hoặc làm theo. Vì thế nhà trường, gia đình và xã hội là một mối tổng hoà các mối quan hệ để giúp các em trở thành người công dân tốt, là người chủ tương lai của đất nước. 3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1: Để phát huy tính tích cực hoạt động nhận thức của học sinh trong dạy học phải đổi mới đồng bộ về cơ cấu, hệ thống giáo dục, nội dung phương pháp, hình thức tổ chức phương tiện dạy học. 3.1. Khi tiến hành dạy học môn Đạo đức ở lớp 1 phải kết hợp chặt chẽ các phương pháp giáo dục. Các phương tiện dạy học với các phương tiện giáo dục. Để tiết dạy đạo đức được thành công thì giáo viên phải sử dụng các phương pháp đặc trưng chủ yếu và kể chuyện theo tranh, trình bày trực quan, đàm thoại, nêu gương, đóng vai, vv và kèm theo các phương tiện giáo dục như tranh ảnh, truyện kể, phim, phù hợp với nội dung của từng bài. 3.2. Dạy học đạo đức phải luôn gắn bó với thực tiễn trong cuộc sống. Giáo viên tạo điều kiện cho học sinh tập xử lý, giải quyết các tình huống cụ thể gần gũi với cuộc sống của các em để các em tự nhận xét và đánh giá hành vi của hản thân, của những người xung quanh. Ví dụ: Sau khi truyền thụ bài "Lễ phép với anh chị – Nhường nhịn em nhỏ (Tuần 9). Giáo viên cho học sinh tập xử lí và giải quyết các tình huống như: "Cô đến chơi nhà Lan. Cho hai chị em 2 quả táo. 1 quả to. 1 quả nhỏ Lan đã xử lý như thế nào. a) Đưa cho em quả nhỏ – còn Lan quả to. b) Đưa cho em quả to – còn Lan quả nhỏ. c) Chia đôi mỗi quả một nửa để công bằng. d) Nhường cho em chọn trước. Học sinh tìm phương án và đưa ra cách lựa chọn đúng nhất (Học sinh lựa chọn). Đưa câu hỏi: Em thử đoán xem Lan đã lựa chọn tình huống nào? Vì sao? Nếu là em em sẽ chọn tình huống nào? Tại sao? Em có nhận xét gì về tình huống đó: Hay: Hùng có một chiếc ô tô đẹp – em hỏi mượn: Hùng đã: a) Không cho em mượn. b) Cho em mượn và để em chơi 1 mình. c) Cho em mượn và hướng dẫn, cùng chơi với em. Học sinh thảo luận và đưa ra phương án đúng nhất. Giáo viên chốt lại và kết luận cho học sinh. "Là anh chị luôn luôn phải nhường nhịn và giúp đỡ em nhỏ, " Giáo viên có thể cho các em thuyết trình, thảo luận, đàm thoại về các chủ đề đạo đức trong cuộc sống, ở lớp, ở trường và xã hội, giúp các em phân biệt được cái đúng, cái sai, cái xấu xa, tội ác, Hay trong bài “Nghiêm trang khi chào cờ (tuần 11 – tiết 1) trong bài tập số 2 cho học sinh quan sát tranh – thảo luận theo cặp để trả lời câu hỏi. - Những người trong tranh đang làm gì? - Tư thế của họ đứng như thế nào? - Vì sao họ phải đứng nghiêm trang khi chào cờ? - Vì sao họ lại sung sướng để cùng nhau nâng niu lá cờ của Tổ Quốc? (đối với tranh 3). Khi học sinh trả lời xong. Giáo viên cho các em nhận xét câu trả lời của các bạn và liên hệ thực tế giờ chào cờ, đầu tuần của lớp, rồi đi tới kết luận Quốc kì là tượng trưng cho một nước. Quốc kì Việt Nam màu đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Quốc ca là bài hát chính thức của một nước dùng khi chào cờ cần phải bỏ mũ nón, sửa sang lại, đầu tóc, quần áo chỉnh tề, đứng nghiêm, mắt hướng nhìn lá Quốc kì. Phải nghiêm trang khi chào cờ để tỏ lòng tôn kính Quốc kì, thể hiện tình yêu đối với đất nước Việt Nam. Hoặc dạy bài: Trật tự trong trường học (Tuần 16) Đối với bài tập 3 giáo viên cho học sinh quan sát tranh để nhận xét các bạn trong tranh ngồi học như thế nào? Giáo viên cho nhiều học sinh trả lời và lấy ý kiến nhận xét của các bạn và kết luận: “Phải giữ trật tự trong giờ học, ngồi học phải ngay ngắn, chăm chú nghe cô giáo giảng bài. Muốn phát biểu phải giơ tay để xin ý kiến, liên hệ thực tế để các em có ý thức tốt trong hoạt động học tập và các hoạt động khác. 3.3. Giáo dục đạo đức không chỉ ở môn đạo đức, mà ở bất kì môn học nào người giáo viên phải làm nhiệm vụ giáo dục giá trị đạo đức. Cung cấp cho học sinh kiến thức về các chuẩn mực, hành vi đạo đức thông qua môn đạo đức và các môn học khác. Ví dụ: dạy môn Tự nhiên và xã hội lớp 1 – dạy bài: Gia đình; giáo dục cho các em phải biết kính trọng" Kính trên nhường dưới, biết giúp đỡ bố mẹ làm các việc phù hợp với tuổi nhỏ các em có thể làm được: "Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình.” Dạy học vần: Trong bài ôn tập số 37 có phần kể chuyện "Cây khế" Giáo dục cho học sinh anh em phải biết chia sẻ, hoà thuận không được tham lam. Hay trong bài tiếng việt 43 phần kể chuyện “Sói và Cừu”: Giáo dục cho học sinh sự gan dạ, thông minh để xử lí mọi tình huống. 3.4. Giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 không chỉ bó hẹp trong phạm vi lớp học mà còn được giáo dục bằng các giờ hoạt động tập thể, ngoại khoá. Ví dụ: Như sinh hoạt văn nghệ, vui chơi luôn giúp đỡ các em cách cư xử, ứng xử trong lời ăn tiếng nói để thể hiện là người học sinh ngoan, có lòng chân thành, thẳng thắn, nguyên tắc, ý thức tốt, tự giác trong mọi công việc. - Luyện tập cho học sinh các quy định – nội dung do nhà trường đề ra như "nội quy về học tập", "Nội quy về cách ăn mặc", "Nội quy sinh hoạt sao", + Tổ chức sinh hoạt tập thể vào buổi cuối tuần để biểu dương, nêu gương, khen thưởng cho học sinh có nhiều thành tích, ngoan ngoãn trong các hoạt động học tập – sinh hoạt. Đồng thời cũng nhắc nhở, phê bình một số học sinh còn chưa thực hiện tốt các nội quy quy định của lớp, của trường để các em sửa chữa và nhanh tiến bộ. 3.5. Nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp, nắm vững các đối tượng học sinh có hoàn cảnh đặc biệt, sự tiếp thu, nhận thức của từng em. Căn cứ vào đặc điểm của nhà trường và điều kiện của địa phương để chọn ra nội dung sinh hoạt phù hợp cho học sinh. Ở lớp tôi chủ nhiệm tôi luôn tìm hiểu tâm lí của học sinh. Trong các buổi sinh hoạt tập thể tôi thường tổ chức sinh hoạt theo chủ điểm của tuần, của tháng như cho các em thi văn nghệ, kể chuyện tổ chức trò chơi sắm vai, với cách hoá trang đơn giản. Nhất là các câu chuyện tự biên, có nội dung đơn giản nhưng gần gũi với cuộc sống để các em tích cực tham gia sôi nổi. Qua buổi sinh hoạt đó, lồng ghép giáo dục cho học sinh có tinh thần đoàn kết, tinh thần tập thể, tình yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, công bằng, phát huy tính sáng tạo của học sinh. Ví dụ: Trong tháng 9 chủ điểm “Chào mừng năm học mới”: Các em vào năm học mới giáo viên định hướng cho các em thấy rõ nhiệm vụ của năm học vì đây là năm đầu tiên các em làm quen với trường tiểu học, có nhiều môn học, có nhiều điều mới lạ, giáo viên hướng dẫn và giúp đỡ các em sẵn sàng nhận nhiệm vụ được giao và hoàn thành tốt các nhiệm vụ của người học sinh. Hay tháng 11 chủ điểm "Chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam", phát động phong trào "Bông hoa học tốt" giúp các em học tập và rèn luyện tốt, xây dựng đôi bạn cùng tiến. Giáo dục cho học sinh có thái độ, tinh thần học tập đúng đắn. Học tập tốt dành nhiều bông hoa. Đó chính là sự thể hiện lòng kính trọng và biết ơn thầy cô giáo. Giáo viên có thể kết hợp nhiều hình thức thi đua để hoạt động gây hứng thú cho học sinh. Ví dụ: Làm báo ảnh chào mừng ngày 20 – 11. Đi thăm thầy cô giáo cũ. Tháng 12: chủ điểm "Chào mừng ngày Thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22/12". Giáo dục cho học sinh những đức tính tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Học tập và làm việc theo gương anh bộ đội. Giúp học sinh có phẩm chất tốt đẹp, có ý thức tổ chức kỉ luật, có tinh thần vượt khó, lòng trung thành trong học tập và các hoạt động khác, giúp đỡ các gia đình thương bình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng bằng những việc làm nhỏ của mình. - Các hình thức hoạt động, giáo viên có thể tổ chức như: Hát, múa, thi kể chuyện về anh bộ đội. - Đến thăm các gia đình thương bình liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng. - Tổ chức mít tinh, nghe nói chuyện truyền thống kỉ niệm 22/12. 3.6. Người xưa thường nói: "Tấm gương bao giờ cũng có giá trị hơn giáo huấn" đối với học sinh lớp 1. Người giáo viên là thần tượng, là trí tuệ, là lí tưởng của các em, các em tin vào lời dặn dò vào việc làm của giáo viên hơn cả những điều cha mẹ dặn dò, khuyên nhủ. Vì vậy người giáo viên dạy đạo đức không phải chỉ có nhiệt tình, cần có kiến thức, có vốn kinh nghịêm để ứng xử. Đặc biệt ở mỗi thầy cô giáo, phải là một tấm gương sáng về đạo đức, mẫu mực để học sinh noi theo, để củng cố niềm tin cho trẻ về đạo đức. Các em thu nhận được những điều cô dạy ở trên lớp không mâu thuẫn với thực tế. 3.7. Việc giáo dục đối với học sinh còn chưa ngoan: Giáo viên phải thường xuyên gặp gỡ học sinh để giúp đỡ các em, thống nhất với phụ huynh cách giáo dục em học sinh đó (Dựa vào tâm lí của các em). Học sinh muốn có sự chuyển biến tốt thì người thầy phải kiên trì, không nôn nóng, chán nản, luôn luôn gần gũi và đồng thời là chỗ dựa vững chắc của các em khi các em đến trường. 3.8. Giáo viên kết hợp với phụ huynh giáo dục học sinh ngay từ đầu năm học để cùng nhau làm tốt việc giáo dục đạo đức. Tóm lại: Việc giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 phải thực hiện ngay từ đầu như người xưa đã nói " Dạy con từ thuở còn thơ",trẻ em như tờ giấy trắng nên việc giáo dục đạo đức là quan trọng. Việc giáo dục đạo đức cho các em không chỉ là lí thuyết, không phải đơn thuần chỉ là quá trình chuyển động thông tin từ thầy đến trò mà là một quá trình tâm lí xã hội tác động đến trí tuệ của các em. 4. Kết quả thực hiện: - Khi áp dụng giải pháp này thì kết quả đạt được như sau: + Học sinh ngoan hơn, biết lễ phép chào hỏi thầy cô giáo và người lớn tuổi, biết cách xưng hô với người lớn, đoàn kết và giúp đỡ bạn bè, biết cách ứng xử đúng mực với các bạn. + Có ý thức tổ chức kỉ luật: Thể hiện là ít đi học muộn hơn, nghỉ học là các em đều có giấy xin phép, giữ trật tự khi nghe giảng. + Tích cực tham gia các hoạt động của lớp, của trường đề ra. + Tự giác trong các hoạt động ngoại khoá. + Vệ sinh cá nhân gọn gàng và đẹp đẽ hơn. Kết quả đánh giá phẩm chất của lớp 1A, năm học 2015-2016, sĩ số: 27 học sinh, trong đó nữ:12 học sinh cả năm đạt 27/27 tỉ lệ 100% Kết quả đánh giá phẩm chất cuối học kì 1 của lớp 1A,năm học 2016-2017, sĩ số: 35 học sinh, trong đó nữ: 20 học sinh, như sau: Tốt Đạt Cần cố gắng SL Nữ SL Nữ SL Nữ Chăm học, chăm làm 28 20 7 0 0 0 Tự tin, trách nhiệm 26 20 9 0 0 0 Trung thực, kỉ luật 27 20 8 0 0 0 Đoàn kết, yêu thương 29 20 6 0 0 0 III. Kết luận và khuyến nghị. Bài học rút ra kinh nghiệm của đề tài: Để nâng cao giáo dục đạo đức cho học sinh lớp 1 trước hết người giáo viên phải: + Luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. + Phải kết hợp chặt chẽ các phương pháp giáo dục và các phương tiện dạy học. Dạy học đạo đức phải luôn gắn bó với thực tiễn trong cuộc sống. Phối hợp tốt công tác chủ nhiệm giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội để giáo dục cho học sinh trở thành những người con ngoan, trò giỏi * Trên đây là những đúc kết kinh nghiệm của tôi trong quá trình dạy học đạo đức nhiều năm, tuy nhiên còn nhiều hạn chế mong sự góp ý của ban giám hiệu nhà trường và hội đồng sư phạm, cùng các bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy và giáo dục đạo đức cho các em. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hoài Tân, ngày 26 tháng 1 năm 2017 Người viết Nguyễn Thị Thu Hương Tài liệu tham khảo: Sách giáo viên Đạo đức lớp 1; Sách giáo khoa Đạo đức lớp 1; Các tài liệu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC SỐ 2 HOÀI TÂN
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_dao_duc_cho.doc