Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 5
Giáo dục là một quá trình lâu dài, trong đó người làm giáo dục phải áp dụng
nhiều biện pháp, từ khâu tổ chức, giáo dục, đến tác động vào từng cá nhân và tập thể.
Quá trình đó cũng không phải chỉ diễn ra trong một hay hai ngày mà là quá trình tác
động lâu dài, như dân gian thường nói “mưa dầm thấm lâu”. Hiểu được điều này nên
trong quá trình giảng dạy tôi luôn thể hiện là một người thầy có tinh thần trách nhiệm
cao và luôn luôn tìm tòi để tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy ở phân môn LuyệnTừ và câu.
Luôn tìm hiểu nhiều phương pháp mới để vận dụng vào dạy tốt phân môn tập
làm văn đặt biệt là phân môn LuyệnTừ và câu.
“Biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 5”. . I.ĐẶT VẤN ĐỀ: Trong cuộc sống, Tiếng Việt là vốn ngôn ngữ phát triển toàn diện nhất, có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu giao tiếp trong xã hội. Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông của cả nước, có vai trò đặc biệt quan trọng trong cộng đồng người Việt Nam nói chung và trong trường phổ thông nói riêng mà đặc biệt là trường tiểu học. Bên cạnh đó, Luyện từ và câu là một trong những phân môn quan trọng góp phần hình thành tri thức và kĩ năng diễn đạt trong Tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường tiểu học. Tuy nhiên, việc dạy Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng còn nhiều băn khoăn và trăn trở bởi sự diễn đạt trong Tiếng Việt rất phong phú và đa dạng. Do đó, cần phải có biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu . Đó cũng là lý do chúng tôi chọn đề tài : “Biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 5”. II/ THỰC TRẠNG 1. Thuận lợi : - Cơ sở vật chất đầy đủ, khang trang. - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu và phụ huynh học sinh. - Có thư viện với nhiều đầu sách và lịch cho học sinh mượn sách rõ ràng, có chỗ để học sinh có thể đọc sách vào giờ giải lao. 2. Khó khăn : - Trường chỉ dạy lớp 1 buổi /ngày nên thời lượng học ở trường ít so với các trường có lớp học 2 buổi/ngày. - Nhiều HS chưa hiểu rõ tầm quan trọng của phân môn Luyện từ và câu nên cách dùng từ, đặt câu, thái độ học tập phân môn này chưa được tốt. - Vốn sống, sự hiểu biết và khả năng diễn đạt của học sinh còn hạn chế. - Một số HS chưa ham thích học phân môn Luyện từ và câu ( vì HS chưa có kỹ năng dùng từ đặt câu, nói và viết chưa thành câu, chưa biết sử dụng dấu Trang 1 - Đa số các em đều là con em gia đình lao động nghèo nên việc kèm cập các em học tập ở nhà của gia đình còn hạn chế. - Các em là trẻ em ở vùng nông thôn nên việc đọc sách báo vẫn còn ít. Qua 2 tuần học đầu năm, nhà trường đã tổ chức thi khảo sát chất lượng đầu năm, kết quả của môn Tiếng Việt nói chung đạt như sau: ĐIỂM 5 4 3 2-1 4 2 19 10 II/ CÁC BIỆN PHÁP VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN HIỆN : Giáo dục là một quá trình lâu dài, trong đó người làm giáo dục phải áp dụng nhiều biện pháp, từ khâu tổ chức, giáo dục, đến tác động vào từng cá nhân và tập thể. Quá trình đó cũng không phải chỉ diễn ra trong một hay hai ngày mà là quá trình tác động lâu dài, như dân gian thường nói “mưa dầm thấm lâu”. Hiểu được điều này nên trong quá trình giảng dạy tôi luôn thể hiện là một người thầy có tinh thần trách nhiệm cao và luôn luôn tìm tòi để tìm ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy ở phân môn LuyệnTừ và câu. Luôn tìm hiểu nhiều phương pháp mới để vận dụng vào dạy tốt phân môn tập làm văn đặt biệt là phân môn LuyệnTừ và câu. lớp 5. Bằng những kinh nghiệm của bản thân và quá trình học hỏi thêm ở đồng nghiệp mà giờ đây tôi đã tìm ra một số biện pháp và giải pháp đệ có thể dạy tốt phân môn LuyệnTừ và câu lớp 5 như sau: 1. Mục tiêu phân môn Luyện từ và câu lớp 5: Phân môn Luyện từ và câu giúp HS: 1. Mở rộng, hệ thống hóa vốn từ và trang bị cho HS một số hiểu biết sơ giản về từ, câu và văn bản. 2. Rèn luyện cho HS các kỹ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các dấu câu. Trang 2 3. Bồi dưỡng cho HS thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp. 2. Nội dung chương trình phân môn Luyện từ và câu lớp 5: 2.1. Phân môn LT&C lớp 5, HS cần đạt được chuẩn kiến thức và kỹ năng đã đề ra trong CTTH như sau: - Về ngữ âm và chữ viết: + Nhận biết cấu tạo của vần: âm đệm, âm chính, âm cuối. Biết quy tắc ghi dấu thanh trên âm chính. + Biết viết hoa tên người, tên địa lí Việt Nam và nước ngoài. - Về từ vựng: + Biết thêm các từ ngữ (gồm cả thành ngữ, tục ngữ và một số từ Hán Việt thông dụng) về tự nhiên, xã hội, lao động sản xuất, bảo vệ Tổ quốc ... + Hiểu thế nào là từ nhiều nghĩa; nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. + Bước đầu nhận biết và có khả năng lựa chọn từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa trong nói và viết. - Về ngữ pháp: + Nhận biết và có khả năng sử dụng các đại từ, quan hệ phổ biến. + Nhận biết và có khả năng tạo lập câu ghép trong nói và viết. + Biết dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm, dấu chấm phẩy, dấu ngoặc kép, dấu gạch ngang. - Phong cách ngôn ngữ và biện pháp tu từ: + Nhận biết và bước đầu cảm nhận được cái hay của những câu văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa trong các bài học. + Biết dùng các biện pháp nhân hóa và so sánh để nói và viết được câu văn hay. 2.2. Nội dung dạy LT&C trong sách Tiếng Việt 5. Nội dung Số tiết dạy Học kì I Học kì II Cả năm - Mở rộng và hệ thống hóa vốn từ: - Nghĩa của từ (từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, 12 11 10 22 11 Trang 3 từ đồng âm, từ nhiều nghĩa). - Từ loại (đại từ, quan hệ từ) - Câu ghép - Văn bản (liên kết câu) - Ôn tập (về từ loại, cấu tạo từ, câu đơn, dấu câu, tổng kết vốn từ ở tiểu học). Tổng số 5 4 32 8 4 8 30 5 8 4 12 62 3. Các biện pháp dạy học: 3.1. Hướng dẫn HS làm bài tập - GV giúp HS nắm yêu cầu bài tập. - Hướng dẫn HS chữa một phần của bài tập để làm mẫu. - Hướng dẫn HS làm bài tập vào vở (hoặc bảng nhóm, vở nháp, vở bài tập); làm cá nhân hoặc nhóm, .... - Tổ chức cho HS trao đổi nhận xét về kết quả; rút ra những điểm cần ghi nhớ. - Sau mỗi bài tập, HS (GV) chốt lại kiến thức cần ghi nhớ. 3.2. Hướng dẫn HS hình thành kiến thức mới. - Bài dạy kiến thức mới về từ và câu thường gồm 3 phần: Nhận xét, Ghi nhớ và Luyện tập. - Nhận xét là phần cung cấp ngữ liệu có liên quan đến nội dung bài học và nêu câu hỏi (bài tập) gợi ý cho HS phân tích nhằm giúp các em tự hình thành kiến thức. Ngữ liệu thường được rút ra từ chính các bài tập đọc mà HS đã học. Các ngữ liệu mang tính điển hình cao để đảm bảo cho việc hình thành kiến thức mới cho các em đạt hiệu quả cao. GV tổ chức cho HS khai thác ngữ liệu ở phần nhận xét theo các hình thức: + Trao đổi chung cả lớp. + Trao đổi theo từng nhóm. + Tự làm bài cá nhân. Trang 4 Dù theo hình thức nào thì GV cũng cần chú ý dẫn dắt HS để hướng cho các em tự rút ra những điểm cần ghi nhớ về kiến thức. - Ghi nhớ là phần chốt lại những những điểm cốt lõi về kiến thức được rút ra qua việc phân tích ngữ liệu. HS cần nắm vững kiến thức này bằng cách: + Tự rút ra những điểm chính cần ghi nhớ qua phân tích ví dụ. + Đọc phần Ghi nhớ trong SGK. + Nêu những điểm cần ghi nhớ (không cần nhìn SGK) - Luyện tập là phần bài tập thực hành nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã học. HS cần chủ động nhiều hơn khi thực hiện các yêu cầu của bài tập. GV có thể cho HS nhắc lại một số kiến thức có liên quan, sau đó tổ chức cho HS làm bài tập theo các hình thức cá nhân, cặp đôi, nhóm,.. Chú ý: + Hướng dẫn HS tìm hiểu kỹ yêu cầu của bài tập. + Chữa mẫu cho HS một bài hoặc một phần của bài tập. + Hướng dẫn HS làm bảng con, bảng lớp, bảng nhóm, vở nháp, vở bài tập + Hướng dẫn HS tự kiểm tra hoặc đổi bài để bạn kiểm tra. + Hướng dẫn HS chữa bài tại lớp để rút kinh nghiệm chung và củng cố kiến thức, kỹ năng cần đạt. 4. Các phương pháp dạy học: Phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ rèn cho HS dùng từ đúng, nói viết thành câu, bởi vậy cần khai thác triệt để thế mạnh của PPDH luyện tập theo mẫu, phương pháp phân tích ngôn ngữ, phương pháp thực hành giao tiếp.... 4.1. Phương pháp luyện tập theo mẫu: Đối với HS tiểu học nói chung và HS lớp 5 nói riêng, khi dạy Luyện từ và câu GV nên sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu để các em dễ dàng lĩnh hội được kiến thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt. Trong giờ dạy, GV đưa ra các mẫu cụ thể về lời nói hoặc mô hình lời nói (cũng có thể cùng HS xây dựng mẫu lời nói), để thông qua đó, hướng dẫn HS nhận xét, phân tích để rút ra những kiến thức, kĩ năng của bài học yêu cầu, từ đó có thể thực hành, luyện tập theo mẫu. Mẫu ở đây được coi là một Trang 5 phương tiện để “thị phạm hóa”, giúp HS tiếp nhận những lý thuyết ngôn ngữ không phải chỉ bằng cách nghe qua lời giảng của GV mà còn được tận mắt chứng kiến, tận mắt được “nhìn” một cách tường minh mẫu mà mình cần làm theo. Ví du: Khi dạy nội dung bài học Mở rộng vốn từ thiên nhiên (tuần 9, TV 5 tập 1, trang 87) Bài tập 1: - Giúp HS nắm vững yêu cầu bài tập. - GV nói: Trong mẩu chuyện “ Bầu trời mùa thu”, mỗi bạn nhỏ có cách cảm nhận miêu tả bầu trời rất khác nhau. - GV ghi câu làm mẫu lên bảng: Các em hãy nhìn lên bầu trời mà xem. Mùa hè, nó rất nóng và cháy lên những tia sáng của ngọn lửa. - Tổ chức cho HS làm bài, trình bày kết quả. - Cả lớp, GV nhận xét ghi ý đúng: xanh như mặt nước mệt mỏi trong ao được rửa mặt sau cơn mưa bầu trời xanh biếc dịu dàng buồn bã ................. 4.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Đây là PPDH trong đó HS dưới sự tổ chức và hướng dẫn của GV, tiến hành tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ, quan sát và phân tích các hiện tượng đó theo định hướng của bài học, cũng tức là theo định hướng của nội dung khoa học bộ môn, trên cơ sở đó rút ra những nội dung lí thuyết hoặc thực hành cần ghi nhớ.. Cụ thể là, GV hướng dẫn HS phân chia đối tượng (chứa hiện tượng ngôn ngữ cần lĩnh hội) ra thành những bộ phận, những khía cạnh, những mặt khác nhau... để lần lượt tìm hiểu một cách kĩ càng hơn, sâu sắc hơn, nhằm mục đích nhận thức về đối tượng một cách đầy đủ, chính xác. Trang 6 4.3. Phương pháp thực hành giao tiếp: Phương pháp thực hành giao tiếp rất cần được sử dụng trong giờ Luyện từ và câu , bởi vì, mọi hiện tượng từ ngữ, ngữ pháp trong SGK không nằm ngoài môi trường giao tiếp của lứa tuổi HS. Phương pháp này không phải chỉ là cách hướng dẫn HS vận dụng lí thuyết được học vào thực hiện các nhiệm vụ của quá trình giao tiếp, mà còn là phương pháp cung cấp lí thuyết cho HS trong chính quá trình giao tiếp. Khi vận dụng phương pháp thực hành giao tiếp vào dạy học Luyện từ và câu, chúng ta đã tận dụng vốn hiểu biết về từ ngữ, ngữ pháp của HS vào dạy học để HS cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong việc tiếp nhận kiến thức và rèn luyện các kĩ năng mới. Ví dụ: Em chọn dấu chấm, dấu chấm hỏi hay dấu chấm than để điền vào từng ô trống trong mẫu chuyện vui sau đây? Tùng bảo Vinh: - Chơi cờ ca – rô đi - Đề tớ thua à Cậu cao thủ lắm - A Tớ cho cậu xem cái này Hay lắm Vừa nói, Tùng vừa mở tủ lấy quyển ảnh lưu niệm gia đình đưa cho Vinh xem - Ảnh chụp cậu lúc lên mấy mà nôm ngộ thế - Cậu nhầm to rồi Tớ đâu mà tớ Ông tớ đấy - Ông cậu - Ừ Ông tớ ngày còn bé mà Ai cũng bảo tớ giống ông nhất nhà Theo HẢI HỒ (Tiếng Việt 5, tập 2, trang 115) Để hướng dẫn HS làm bài tập này, GV có thể cho HS đọc theo vai hoặc đóng vai. Các lời thoại hoặc lời dẫn chuyện phải làm sao thể hiện đúng mục đích nói của câu. Sau khi được nghe giọng nói, ngữ điệu lời nói, các em sẽ xác định được loại dấu câu cần đặt vào mỗi chỗ trống. Trang 7 Khi vận dụng phương pháp thực hành giao tiếp vào dạy học dấu câu, chúng ta đã tận dụng vốn hiểu biết về ngôn ngữ nói của HS vào dạy học để trẻ cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong việc tiếp nhận kiến thức và rèn luyện các kĩ năng học tập mới. Ngoài các phương pháp nêu trên, trong giờ Luyện từ và câu ở lớp 5, tùy từng nội dung bài học, điều kiện của lớp học và đối tượng HS từng vùng miền, GV có thể vận dụng nhiều phương pháp khác nhau để HS có thể chiếm lĩnh kiến thức như phương pháp trò chơi học tập, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp đóng vai, v. v.... 5. Những điều cần lưu ý khi dạy Luyện từ và câu lớp 5: 5.1. Đối với dạng bài mở rộng và hệ thống hóa vốn từ Nếu trình độ HS trong lớp còn hạn chế về tiếng Việt, GV chỉ có thể yêu cầu tìm được một vài từ thông dụng theo gợi ý trong SGK (tùy thuộc khả năng và vốn sống của HS) hoặc chủ động dẫn dắt, gợi ý, giải nghĩa từ ngữ bằng nhiều hình thức khác nhau để bổ sung vốn tiếng Việt và giúp các em dễ thực hiện yêu cầu của bài tập; hạn chế HS tự làm bài hoặc trao đổi theo nhóm để bớt khó khăn cho HS đối với giờ học Luyện từ và câu. Ví dụ: Trong bài Mở rộng vốn từ: Hữu nghị – Hợp tác (Tuần 6), bài tập 2 có yêu cầu sau: Xếp các từ có tiếng hợp cho dưới dây thành hai nhóm a và b: hợp tình, hợp tác, phù hợp, hợp thời, hợp lệ, hợp nhất, hợp pháp, hợp lực, hợp lí, thích hợp. a. Hợp có nghĩa là ‘’gộp lại” (thành lớn hơn). M: hợp tác. b. Hợp có nghĩa là “ đúng với yêu cầu, đòi hỏi ... nào đó”. M: thích hợp. GV có thể giúp HS hiểu nghĩa từ hợp pháp (đúng với pháp luật) để các em có thể xếp vào nhóm b. Khi HS tập giải nghĩa từ, GV cũng cần chấp nhận nhiều cách diễn đạt khác nhau (đôi khi còn vụng về, “ngây ngô”), miễn sao thể hiện được sự cảm nhận đúng và biết Trang 8 cách dùng từ không sai lạc về ý nghĩa. Từ đó, GV uốn nắn để các em biết cách giải nghĩa từ cho chính xác. 5.2. Đối với loại bài hình thành kiến thức lý thuyết. Để phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS lớp 5, GV cần khai thác và vận dụng hiệu quả phương pháp phân tích ngôn ngữ. Tư duy phân tích, tổng hợp của HS lớp 5 đã bước đầu hình thành, các em đã biết tri giác các tài liệu học tập để tìm ra những hiện tượng lặp lại và phát hiện bản chất của sự vật, hiện tượng. Để giờ học lí thuyết đảm bảo tính vừa sức và tạo được hứng thú với HS, GV cần phối hợp sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu, phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp thảo luận nhóm..... Ví dụ, khi dạy bài Từ đồng âm, để giúp HS nhận biết khái niệm về từ đồng âm và phân biệt nghĩa của các từ đồng âm, GV nên cho HS thảo luận nhóm để các em huy động vốn hiểu biết của mình về từ đồng âm và cùng nhau trao đổi những hiểu biết của mình về từ đồng âm mà bài học yêu cầu. 5.3. Đối với loại bài luyện tập Tùy từng nội dung cụ thể, GV có thể sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học: phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp trò chơi học tập,...để HS có thể thực hành các kiến thức lí thuyết được học một cách linh hoạt vào các tình huống sử dụng ngôn ngữ cụ thể. IV/ KẾT QUẢ : 1. Về học sinh : - Hầu hết học sinh đều ham thích và hứng thú học tập phân môn này, các em không còn có biểu hiện ngại học mỗi khi nhắc đến nó. - Học sinh học tập trong không khí tự nhiên thoải mái, tích cực và hào hứng nhất là vào tiết làm bài miệng, ngoài việc các em nêu lên ý kiến diễn đạt của mình mà các em còn nhận xét được ý vừa nêu của bạn theo nhận thức của em một cách chân thật nhất. Trang 9 - Các em có điều kiện để bộc lộ những khả năng tư duy, hiểu biết, khả năng diễn đạt, phát triển vốn từ, trí thông minh và óc sáng tạo mà ở một số em yếu cũng đã nhận thức được để thực hiện bài văn thì ta phải thực hiện như thế nào đúng nhất về phần cấu tạo của thể loại văn đó mặc dù ý diễn đạt của em yếu vẫn còn hạn chế theo mức đọ của em. - Trong văn nói các em mạnh dạn hơn, diễn đạt lưu loát đầy đủ ý. Trong văn viết các em tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, khắc phục được nhược điểm về đặt câu, đồng thời biết lựa chọn từ ngữ, hình ảnh phù hợp để đặt câu, làm cho câu văn, đoạn văn và bài văn thêm sinh động. - Kết quả học tập của học sinh ở phân môn Luyện từ và câu qua các kì kiểm tra được nâng lên một cách rõ rệt. Cụ thể : Tổng số học sinh lớp 35 ĐIỂM Giỏi Khá Trung bình HK 1 SL % SL % SL % 26 74.28 9 25.72 0 0 2. Về giáo viên : - Sau mỗi tiết dạy Luyện từ và câu , tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin khi học sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo, ngày càng tiến bộ. - Bản thân không còn cảm thấy ái ngại và khó khăn mỗi khi dạy phân môn Luyện từ và câu . - Việc dạy tốt phân môn Luyện từ và câu là động lực để tôi dạy tốt những môn học khác. V.KẾT LUẬN 1./ Bài học kinh nghiệm : Trang 10 Qua thời gian giảng dạy ở lớp 5, bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm : - GV cần coi trọng việc rèn luyện cho HS 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đây là điều cơ bản và quan trọng nhất trong Tiếng Việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng, đó là những kỹ năng lao động, kỹ năng sống của mỗi thành viên trong xã hội. - GV chủ nhiệm cần kết hợp với các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là Tổng phụ trách Đội tổ chức nhiều buổi sinh hoạt ngoại khoá,hoa học tập theo chủ điểm Nhằm nâng cao vốn hiểu biết về Tiếng Việt cho HS. - Cần xây dựng cho HS sự hứng thú và thói quen đọc sách để giúp cho các em rèn luyện 4 kỹ năng trên. Từ đó, tầm nhìn, vốn hiểu biết và sự sáng tạo trong học tập của HS ngày càng được nâng cao hơn nữa. 2. Tóm lại Để giảng dạy thành công phân môn Luyện từ và câu, GV phải nắm vững mục tiêu của môn học, nội dung chương trình và các biện pháp dạy học chủ yếu. Bên cạnh đó, GV phải có vốn kiến thức sâu rộng, phong phú; phải sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đồng thời phải biết tổ chức các hình thức học tập đa dạng, phong phú.nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong học tập của HS. VI. KIẾN NGHỊ + Sĩ số lớp đạt chuẩn 25- 30 em để công tác giảng dạy được chặt chẽ và quan tâm kịp thời đến từng học sinh. + Trang bị các phương tiện như: ti vi, bàn ghế, cho các phòng học để giáo viên thực hiện nhiệm vụ giáo dục áp dụng phương pháp tích cực hóa hoạt động của học sinh một cách có hiệu quả. + Các cấp lãnh đạo tổ chức nhiều chuyên đề về phương pháp dạy Tiếng Việt để bản thân và đồng nghiệp học hỏi kinh nghiệm. Trang 11 + Xây dựng thêm phòng học để tránh tình trạng học sinh quá tải ở năm học 2014-2015. Trang 12
File đính kèm:
- sk2014.trang.pdf