Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Hồng Quang

 Trong những năm gần đây, khi xu thế toàn cầu hoá, hội nhập với thế giới, mở ra cho nước ta những thời cơ, vận hội mới. Nền kinh tế đã có những bước phát triển vượt bậc, đời sống nhân dân được nâng lên. Công tác giáo dục đã được Đảng và Nhà nước quan tâm chăm lo hơn. Trong nhà trường, các tổ chức đoàn thể cũng có nhận thức đúng về tầm quan trọng của đạo đức và công tác giáo dục đạo đức học sinh, chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao. Bên cạnh những thành tựu của ngành Giáo dục và Đào tạo như: Số học sinh học giỏi, khá, học sinh có hạnh kiểm tốt, khá ngày càng nâng lên, đã góp phần tạo nên những thành quả quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu của Ngành: "Nâng cao dân trí - Đào tạo nhân lực - Bồi dưỡng nhân tài" cho đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, đây đó, còn có những hiện tượng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, thích chạy theo lối sống thực dụng, thậm chí những hành động phạm pháp của “người lớn” đã tác động xấu trực tiếp đến học sinh. Các tệ nạn xã hội có lúc, có nơi đã xâm nhập vào trong trường học; tình trạng một số ít học sinh lún sâu vào tệ nạn xã hội, thậm chí đánh thầy, gây án, giết người, cướp của, rượu chè bê tha, cờ bạc, có lối sống tha hóa, buông thả, số này tuy không phổ biến nhưng có xu hướng gia tăng, làm băng hoại đạo đức, tha hoá nhân cách, tác động xấu tới các giá trị đạo đức truyền thống, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giáo dục đạo đức học sinh, đến an ninh trật tự xã hội, gây nỗi đau, và là vấn đề đáng lo ngại cho các bậc cha mẹ.

 Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Người có tài mà không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Nhân dân ta cũng có câu: "Tiên học lễ, hậu học văn" Các câu nói trên đều khẳng định vai trò cực kỳ quan trọng của phẩm chất đạo đức trong sự nhìn nhận, đánh giá, sự tồn tại và phát triển của mỗi người nói riêng và xã hội nói chung. Mục tiêu cơ bản của giáo dục là xây dựng một thế hệ trẻ có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn cao, có thể chất cường tráng, có tâm hồn trong sáng lành mạnh, có khả năng thích ứng và kỹ năng sống cao. Bởi vậy, bất kỳ cơ sở giáo dục nào cũng rất quan tâm về giáo dục hạnh kiểm cho học sinh.

 Ở nước ta, sự nghiệp giáo dục đào tạo đang được toàn Đảng toàn dân quan tâm. Vai trò của người giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn hóa, vừa có nhân cách làm người. Hiện nay, trên các phương tiện thông tin báo chí, truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt (HSCB). Vấn đề này đã trở thành mối quan ngại của dư luận, nhất là với gia đình và nhà trường.

 HSCB, trường nào cũng có. HSCB không nhiều, song lại là “lực cản” rất lớn, thậm trí là thế lực đen” đe dọa, khống chế những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải ở trong lớp, trong trường.

 Giáo dục là khoa học nhưng cũng là nghệ thuật. Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: làm thế nào để cảm hóa và giáo dục học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó có trường THPT Hồng Quang- Lục Yên- Yên Bái.

 

doc26 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 11101 | Lượt tải: 6Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Hồng Quang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh cá biệt tại lớp chủ nhiệm.
3. Một số biện pháp giáo dục HSCB trong nhà trường.
 3.1. Đối với GVCN lớp có học sinh cá biệt.                      
            - Bản thân người GVCN phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm chất, nhân cách của mình. Người GVCN hơn ai hết cần phải có trí tuệ, có lương tâm, có uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín.
            - Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh mình chủ nhiệm vì cuộc sống nội tâm của học sinh ở lứa tuổi này còn nhiều mặt dễ biến đổi do các quá trình tâm lý chưa ổn định và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống ....
            - Người GVCN phải có tinh thần trách nhiệm cao yêu nghề, yêu thương học sinh và luôn luôn xác định phương châm “Vì sự nghiệp trăm năm trồng người” và “Tất cả vì học sinh thân yêu”.
 - Biết tự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện thiên chức của người kỹ sư tâm hồn.
            - Có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng yếu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt.
          Nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục HSCB, chúng ta cần làm những việc như là:
            + Xác định đúng đối tượng thông qua phản ảnh của lớp, của GV bộ môn và của dư luận.
            + Phân loại: Học sinh cá biệt về học tập hay học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống
            + Tìm hiểu nguyên nhân. Tìm hiểu sở trường, tính cách, hoàn cảnh của HS. Chúng ta nên tìm hiểu hoàn cảnh gia đình học sinh đó như: thu nhập hàng ngày của gia đình, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình như thế nào? Có êm ấm hạnh phúc hay không? Có nhiều ý kiến bất đồng hay không... mục đích là để hiểu rõ học sinh này.
            + Lựa chọn phương pháp, lên kế hoạch thực hiện mục tiêu giúp HS từ cá biệt trở về bình thường thậm chí là tốt.
            + Thực hiện kế hoạch, rút kinh nghiệm. 
 3.1.1. Những điều nên tránh
            - Không cô lập học sinh cá biệt đối với tập thể.
            - Không xúc phạm và làm tổn thương danh dự của học sinh trước tập thể.Một lời nói cũng cần phải thận trọng.
            - Không quá khắt khe xử lý mạnh tay bằng những hình thức kỷ luật nặng nề, đe dọa, thành kiến. Không dùng lời lẽ nặng nề dao to búa lớn, nói như một nhà sư phạm “không cần dùng búa để mổ một con gà”.
            - Một điều tối kỵ đối với học sinh cá biệt, đó là không được đánh học sinh- dù chỉ là một cái tát tay. Bởi theo lời giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn, thì “Quả đấm không phải là khoa học”.
            - Không bỏ mặc và phủ nhận những chuyển biến của học sinh cá biệt. Những thay đổi theo chiều hướng tích cực của học sinh- dù nhỏ cũng đáng trân trọng và phải ghi nhận. 
 3.1.2. Những điều nên làm
3.1.2.1.  Dùng tình cảm để cảm hóa các em
            Tránh đối xử thô bạo, trách móc các em. Hãy tôn trọng nhân cách của các em. Hãy đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các em biết người tốt chung quanh ta, nhiều lắm! các em cần được đối xử tử tế, cần được yêu thương và tôn trọng. Không ai được ngược đãi các em vì các em học chậm. Các em có quyền được đặt câu hỏi và yêu cầu thầy cô giáo giải thích cho em hiểu. Chính vì vậy mới cần có trường học. Và đó là lý do tại sao cần có thầy cô giáo...
          Để hiểu học sinh “cá biệt”, trước hết phải biết chấp nhận các em vô điều kiện. Luôn đứng về phía các em, quan tâm điều các em nghĩ, bàn về những đề tài các em thích. Thỉnh thoảng, sử dụng “thuật ngữ” của các em. Đó là cách mang các em đến gần mình hơn. Khi mối quan hệ đủ thân thiện, khi niềm tin đủ lớn, người thầy sẽ thuận lợi trong việc uốn nắn hành vi, khai sáng tư duy, định hướng nhận thức...
          Nên xử lý mềm mỏng, thậm chí dịu ngọt đối với học sinh cá biệt này, nếu không sẽ không có hiệu quả, có khi gặp phản ứng không tốt ngược trở lại về phía học sinh. Tuy nhiên cũng có đôi lúc ta cũng phải cứng rắn: chẳng hạn trong vấn đề xử phạt "mềm nắn, rắn buông".
          Nếu học sinh có thói hư tật xấu phạm lỗi trầm trọng cũng có thể tùy trường hợp hay tùy đối tượng mà xử lí, nhưng không nên xử lí một cách cứng nhắc. Dù lỗi lầm lớn nhưng nếu em đó biết nhận lỗi và sửa lỗi thì chúng ta hãy tạo cho học sinh đó cơ hội tự làm chủ bản thân, có niềm tin nghị lực để vươn lên. Còn đối với những học sinh lỗi vi phạm không đáng kể nhưng lại vi phạm thường xuyên thì ta không thể bỏ qua mà xử lí một cách linh động tùy theo từng đối tượng. Dù các em vi phạm ở mức độ lỗi lớn hay nhỏ, cũng cần xử lí trên cơ sở giáo dục các em, để các em biết nhận lỗi và tạo những việc làm cụ thể, giao cho em đó thời gian thử thách, cho em đó có cơ hội chuộc lỗi, làm một việc tốt.
3.1.2.2. Kiên trì tạo niềm tin  
            Chúng ta hãy thử hòa mình vào phong cách sống của các em! Để điều hành được học sinh “cá biệt”, người thầy phải sắm đủ các vai. Khi thì nhà mô phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào. Khi thì nhà tâm lý, lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ông trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn... Cứ như thế, kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi.     Từ cảm giác được thầy cô không chối bỏ mình, không chê mình, luôn khen ngợi, động viên và tặng trái tim, ghi điểm thưởng..., các em dần phát hiện ra giá trị của bản thân, cảm thấy mình hữu ích và được việc... Thế là tinh thần học tập được nhân lên, tạo ra sự tương tác và cộng hưởng đối với tập thể lớp, từng bước hòa mình vào tập thể, góp phần đưa tập thể lớp tyheem nhiều tiến bộ.  
          Giáo viên nên thường xuyên trò chuyện, quan tâm, gần gũi, nhắc nhở, động viên học sinh học tập, có thái độ thân thiện với học sinh. Tạo cho học sinh nhìn mình là cảm thấy gần gũi, chứ không phải gặp mình là sợ la, sợ bị mắng khiến cho học sinh sẽ có tâm lý bất cần "Thầy cô kệ thầy cô, ta là ta”. Ta phải làm sao tạo cho học sinh có cảm giác giáo viên như là một người bạn thân, bạn tâm tình, sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mình, khi mình vui, buồn đều có thể chia sẻ với thầy cô, thầy cô sẵn sàng khích lệ, động viên mình khi mình gặp khó khăn trong gia đình, cuộc sống cũng như những bế tắc trong học tập.
          GVCN cần giáo dục từng bước, chậm rãi từ những công việc nhỏ. Chẳng hạn ban đầu là phải thức dậy sớm hơn một chút để không phải đi học muộn, mình học yếu thì nên chịu khó, chăm chỉ làm bài tập hơn các bạn. Khi học, nếu mệt hoặc không thấy vào đầu thì nên giải lao để tinh thần thoải mái rồi học tiếp, không nên cố gắng quá sức. Như vậy, giáo viên không nên giáo dục ào ạt chưa hỏi han lý do gì hết mà đã la mắng học sinh cho dù học sinh đó vi phạm nhẹ, như vậy sẽ mất hiệu quả giáo dục bởi vì đấy là những học sinh cá biệt, tính tình ương ngạnh, tâm lý bất cần, học hay không đối với bản thân học sinh không quan trọng mà học sinh vào lớp là chỉ được "lãnh lương” hàng ngày, không phải làm những việc nặng nhọc bằng tay chân ở nhà.
    3.1.2.3. Biết chấp nhận và yêu thương
            Frank McCourt, một thầy giáo người Mỹ trong hồi ức “Người thầy” đã kể: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những học sinh không đủ trình độ vào trường trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát chúng quậy phá, la ó... đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một học sinh lên tiếng: “Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì?”.
          Frank McCourt nói ông cố nghĩ về những kiến thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để tìm cách đối phó. Tiếc là chỉ có những triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức và luân lý, mà không có cách giải quyết tình huống... “ném bánh mì”. Cuối cùng, ông quyết định... ăn chiếc bánh. Ông viết: “Đó là hành xử đầu tiên của tôi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp. Chúng trố mắt nhìn tôi đầy nét thán phục... Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay...”.
3.1.2.4. Giáo viên phải biết làm mới tiết dạy của mình
            Giáo dục HSCB còn một yêu cầu quan trọng, thầy, cô phải giỏi nghề. Thầy, cô luôn cải tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy. Tiết sau “mới” hơn tiết trước. Sau một tiết học, trò học được nhiều tri thức bổ ích tạo nên sự đam mê học hỏi, khám phá tự tin, khẳng định mình.
          Thầy, cô biết hỏi “gợi mở” mang tính “phát động”, nhất định sẽ nhận được câu trả lời độc đáo. Thầy hỏi: “Theo em cô Tấm có mặt nào tốt, mặt nào chưa tốt. Em thích Tấm ở đức tính gì?”. Trò mạnh dạn trả lời: “Em không thích nhân vật Tấm. Tấm chỉ sống dựa vào người khác. Tấm cũng ác không kém gì mụ dì ghẻ. Tấm lừa giết Cám để trả thù. Tấm thật đáng sợ”. Ta khoan bình luận đúng sai. Em học sinh dám đưa ra một đánh giá riêng của mình. Cũng giống Phùng Quán phê phán câu ca dao cổ: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Hoa sen đẹp, lại có hương thơm, nhờ có “bùn”. Tại sao sen lại vô tình “không tanh mùi bùn”.
          Thầy, cô biết “cuốn” học sinh vào trò chơi học tập, việc làm đó sẽ “lấp đầy” khoảng thời gian “chết”, trò không “nhàn cư” nghịch, đánh cờ ca rô, nhắn tin ngay trong tiết học.
          Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể những yêu cầu về bài tập ở nhà. Hoặc trả lời tỉ mỉ, cụ thể những câu hỏi hay những thắc mắc của các em, tránh để học sinh cảm thấy mình lạc lõng, cảm giác vì mình học dở nên không ai quan tâm, ai cũng khinh rẻ mình, không ai thèm chơi, để ý đến mình, Cả thầy cô giáo cũng ghét mình, coi mình là người thừa trong tập thể lớp.
          Giáo dục HSCB là một nghệ thuật, nghệ thuật dạy trẻ. Thầy, cô đứng trên bục giảng phải đóng nhiều vai: Tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, cả khán giả- tức học sinh ngồi nghe giảng trên lớp. Làm thầy, nhưng phải hiểu trò đang nghĩ gì, làm gì trong giờ học. Bài giảng là một “món ăn”, nếu nhàm chán, học trò sẽ bỏ ăn- bỏ học.
     3.1.2.5.  Phải biết tác động vào động cơ học tập
          Tác động vào động cơ học tập để các em thấy rõ tầm quan trọng của việc học. Có thể đưa ra một số tranh ảnh về nạn thất học- chỉ mới mấy tuổi đầu không được đến trường, phải làm những việc nặng nhọc của người lớn rồi lại bị bạn bè khinh thường, xa lánh, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Ngược lại những em có học thì làm việc thuận lợi dễ dàng, càng ngày càng tiến thân, bạn bè ngưỡng mộ phải trầm trồ khen ngợi, cha mẹ được nở mày, nở mặt.
3.1.2.6. Phải biết động viên kịp thời, đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng
          Giáo viên phải biết trân trọng những gì là tốt dù rất nhỏ của HS. Một lời động viên khích lệ kịp thời khi các em chỉ có một việc làm tốt rất nhỏ cũng đủ làm cho các em thấy tự tin hơn, thấy mình thực sự có ích.
          Hãy mạnh dạn giao việc cho chúng, hướng dẫn các em để chúng làm theo định hướng của mình nhưng vẫn phải để “đất” cho các em thể hiện tính sáng tạo, tuyệt đối không được áp đặt.
3.1.2.7. Phối hợp chặt chẽ các lực lượng giáo dục trong xã hội
          Chúng ta cần biết sử dụng và phát huy hợp lí giá trị, tác dụng của dư luận xã hội.
          Phát huy vai trò của ban đại diện hội cha mẹ HS.
          Tổ chức các buổi ngoại khóa tuyên truyền giáo dục học sinh trong các giờ sinh hoạt lớp hoặc các giờ học tự chọn.
          Thường xuyên thăm gia đình HS để tìm hiểu hoàn cảnh, tạo sự gần gũi giữa giáo viên, HS và PHHS. Không nên chỉ khi các em có khuyết điểm mới đến thăm gia đình.
3.2. Đối với giáo viên bộ môn
 Mỗi một giáo viên bộ môn, hãy cố gắng dạy tốt môn học của mình, hãy chú ý đến mọi đối tượng học sinh, đặc biệt là học sinh cá biệt, học sinh yếu, kém, học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn để tận tình giúp đỡ các em, giúp cho các em tiếp thu tốt nhất kiến thức mà mình đã truyền đạt. Tích cực nâng cao chất lượng tiết dạy, chú ý ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả để kích thích sự ham học, hứng thú của học sinh đối với tiết học, chú trọng việc lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức học sinh thông qua các môn học như: Văn học, Lịch sử, Địa lý, Sinh học và đặc biệt là môn Giáo dục công dân có vị trí quan trọng đối với việc trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về phẩm chất, đạo đức, về quyền và nghĩa vụ công dân, sẽ giúp học sinh có thái độ tích cực và thực hiện những hành vi đúng đắn phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội.
3.3. Đối với Đoàn thanh niên
 Tăng cường công tác quản lý nề nếp học sinh trong các buổi đầu giờ, giữa giờ và tan ca.
 Có mặt ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm có thể xảy ra đối với học sinh.
 Thành lập các đội Thanh niên cờ đỏ nhằm đôn đốc nhắc nhở các trường hợp hoạc sinh vi phạm, theo dõi các lượt vi phạm của học sinh các lớp trừ điểm, đánh vào thi đua
 Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, các buổi sinh hoạt tập thể, các hoạt động phong trào nhân dịp chào mừng các ngày lễ lớn trong năm. Từ đó, lôi kéo các em tham gia để các em nhận thấy“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” từ đó tạo niềm hứng khởi cho các em trong hoạt động và học tập.
3.4. Đối với Ban đại diện cha mẹ học sinh
 Cần quan tâm thường xuyên đến việc học tập của con cái cả ở trường và ở nhà.
 Thường xuyên giữ mối lien lạc với GVCN hoặc qua các kênh thong tin để nắm tình hình học tập của con, từ đó có biện pháp nhắc nhở, uốn nắn, xử lý cho kịp thời, phù hợp.
 Có thể thấy, việc giáo dục HSCB không phải chỉ là trách nhiệm của một người mà cần có sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
4. Hiệu quả của SKKN
 Sau một thời gian áp dụng các biện pháp trên trong công tác chủ nhiệm (Từ tháng 12 năm 2014 đến tháng 12 năm 2015) tôi đã thu được nhiều kết quả đáng mừng từ công tác chủ nhiệm:
- Tập thể lớp liên tục đạt được tuần học tốt, xếp thứ 1,2,3 trong khối đại trà. 
- Được tuyên dương và nhận thưởng trong các đợt tổng kết phong trào thi đua chào mừng các ngày lễ lớn trong năm do Đoàn Thanh niên và Nhà trường phát động.
- Đạt giải trong Hội chợ Ẩm thực chào mừng ngày Thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, làm tập san chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11.
- Nhiều em tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ thể dục thể thao. Trong đó có cả những HSCB.
- Trong số các học sinh cá biệt, đã có nhiều em vươn lên đạt nhiều thành tích trong học tập và rèn luyện. Có em đã đạt học sinh tiên tiến và mạnh dạn đăng ký tham gia ôn đội tuyển HSG. 
- Tập thể lớp không còn hiện tượng học sinh đi học muôn, vi phạm các nội quy của nhà trường, của Đoàn thanh niên và của tập thể lớp đề ra.
- Không còn hiện tượng học sinh vi phạm đạo đức, tham gia đánh nhau, không có học sinh bị ra Hội đồng kỷ luật của nhà trường.
 Kết quả cụ thể như sau:
* Kết quả đối chứng: 
Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Học kỳ I- Năm học 2013- 2014:
SL
Học lực
Hạnh kiểm
Khá
TB
Yếu
Tốt
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
39
9
23
27
69,2
3
7,8
18
46,1
17
43,5
3
7,8
1
2,6
* Kết quả thể nghiệm:
Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 10A4- Năm học 2013- 2014.
SL
Học lực
Hạnh kiểm
Khá
TB
Yếu
Tốt
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
39
10
25,6
28
71,8
1
2,6
20
51,3
17
43,5
2
5,3
0
0
Kết quả giáo dục Trí dục và đức dục lớp 11A4- Học kỳ I- Năm học 2014- 2015.
SL
Học lực
Hạnh kiểm
Khá
TB
Yếu
Tốt
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
38
12
31,6
24
63,2
2
5,2
18
47,4
19
50
1
2,6
0
0
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
     Như chúng ta đã biết, giáo dục học sinh cá biệt là một nhiệm vụ vô cùng  khó khăn, phức tạp và rất khó thành công trong một thời gian ngắn. Nó đòi hỏi một quá trình dài lâu, có sự gắn kết, thật sự trách nhiệm của các giáo viên chủ nhiệm từ cấp dưới đến cấp trên, cùng sự quan tâm chia sẻ thường xuyên từ phía phụ huynh, gia đình.
 Có thể nói, giáo dục đạo đức cho học sinh là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể nên phải đảm bảo chặt chẽ của quy trình quản lý giáo dục. Quy trình giáodục đạo đức học sinh là một quy trình mang tính toàn vẹn và thống nhất từ: Lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện; chỉ đạo; kiểm tra, đánh giá kết quả. Tuy rằng mỗi chức năng có vai trò khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, đan xen và bổ sung cho nhau; thực hiện tốt chức năng này sẽ tạo cơ sở, điều kiện cho các chức năng tiếp theo. Để thực hiện hiệu quả công tác giáo dục đạo đức học sinh thì bên cạnh việc xây dựng những nội quy kỷ luật học sinh, cần phải xây dựng nội quy kỷ luật lao động của giáo viên, cần tạo ra bầu không khí tâm lý tích cực trong nhà trường, giáo viên có quan hệ đồng nghiệp thân thiết, tương trợ, đoàn kết lẫn nhau, có môi trường sống lành mạnh, sự mẫu mực trong sinh hoạt, lối sống của giáo viên sẽ là tấm gương soi sáng và có tác dụng giáo dục rất lớn đối với học sinh. Công tác giáo dục đạo đức học sinh trong giai đoạn hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn khi toàn Đảng, toàn dân ta đang tích cực tham gia cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ ChíMinh”. Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
 Giáo dục đạo đức học sinh là trách nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà trường có vai trò định hướng. Đó là sứ mệnh lịch sử, là vinh dự và trách nhiệm mà xã hội giao cho nhà trường và mỗi chúng ta nói riêng, ngành giáo dục và đào tạo nói chung.
KIẾN NGHỊ
Để áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi có hiệu quả tôi xin có một vài ý kiến đề xuất với các cấp lãnh đạo như sau:
         Thứ nhất, về phía Nhà trường: 
- Đẩy mạnh và đổi mới các hoạt động tập thể, xây dựng môi trường thân thiện, xây dựng CSVC, khu vui chơi giải trí, thể thao. Tổ chức các buổi hoạt động tham quan dã ngoại để lôi cuốn các em đến trường, làm cho các em thực sự thấy “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. 
- Xây dựng chuyên đề về giáo dục học sinh cá biệt trong nhà trường.
- Tổ chức đa dạng các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường.
 - Tăng cường đưa giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục sức khỏe vị thành niên, giáo dục kĩ năng sống vào nhà trường để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống, không bị bỡ ngỡ, bất ngờ. Khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tĩnh xử lí hiệu quả nhất.
 Thứ hai, về phía Giáo viên chủ nhiệm:
- Cần thực hiện hết chức năng và nhiệm vụ của mình.
- Phải có lòng vị tha và hết lòng yêu thương học sinh như người cha đối với con cái. Cố gắng xây dựng tập thể lớp tự quản tốt.
 Thứ ba, về phía Đoàn thanh niên: cần phát động nhiều phong trào để thu hút học sinh tham gia và phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục đạo đức học sinh.
 Thứ tư, về phía Gia đình học sinh:
- Cha mẹ, ông bà nên sống mẫu mực để làm gương cho con cháu.
- Cha mẹ, ông bà cần phải quan tâm đến con cháu nhiều hơn từ tâm tư, nguyện vọng đến việc học và hãy bỏ tư tưởng phó mặc con mình cho nhà trường.
 Trên đây là Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở trường THPT Hồng Quang” của tôi. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn thiện hơn. 
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình TCLLCT-HC.
2. Đảng Cộng Sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc cáckhóa VIII, XI.
3. Tài liệu bồi dưỡng công tác chủ nhiệm trường trung học, tác giả TS.Phan Thị Tố Oanh, trường Cán bộ quản lý giáo dục thành phố Hồ Chí Minh- năm 2012.
4. Hướng dẫn số 30/HD-SGDĐT của Sở giáo dục và đào tạo Yên Bái.
5. Thông tư số 13/2012/TT-BGDĐT ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh giá trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường trunghọc phổ thông có nhiều cấp học.
6. Thông tư số: 08/TT ngày 21/03/1988 của Bộ giáo dục hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh.
7. Thông tư số: 58/2011/TT-BGDĐT, thông tư ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông.
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN

File đính kèm:

  • docSKKN_chu_nhiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan