Sáng kiến kinh nghiệm Tổ chức trò chơi giúp học sinh hoc tốt phân môn Học vần ở Lớp 1
CƠ SỞ THỰC TIỄN
Thực tiễn cho thấy HS lớp Một thuộc tương đối nhanh bài vừa học. Đó là do đặc điểm tâm lý lứa tuổi: HS lớp Một ghi nhớ máy móc, tư duy trực quan, khả năng tập trung chú ý không cao, nên rất dễ dẫn dến học vẹt.
Từ đặc điểm tâm lý này, người giáo viên nên có cách riêng để tổ chức cho
HS có nhiều cơ hội luyện đọc. Việc luyện đọc âm, vần vừa học càng nhiều càng giúp các em nhớ chữ và đọc trôi chảy.
Mặt khác cũng do tâm lý lứa tuổi, HS lớp Một không bao giờ tập trung vào một việc làm quen thuộc trong một thời gian dài.
VD: Khi GV muốn HS tự rèn luyện kĩ năng đọc từ và câu trong bài học, GV thường đưa ra yêu cầu: “các em hãy nhìn lên bảng và đọc bài” thì chỉ ít phút sau đó lớp học đã lao xao tiếng nói và sẽ có nhiều em nói chuyện, làm việc riêng. Vậy thì làm cách nào để HS tự giác, mong muốn đọc được những con chữ kia? Hãy kích thích tính tò mò và tính hiếu thắng của trẻ con bằng những trò chơi có lồng ghép nội dung học tập. Cụ thể GV sẽ thay yêu cầu: “Các em hãy nhìn lên bảng và đọc bài!”, bằng lời mời gọi: “Chú ong này đang cõng một chữ, bông hoa này cũng đang có một chữ. Các em hãy giúp chú ong này tìm đúng bông hoa để khi đọc lên ta sẽ có một từ. Chắc chắn 100 % học sinh trong lớp sẽ “hướng mắt nhìn, miệng đọc” để tìm cho ra chữ.
- Đối với HS viết đúng chính tả Tiếng Việt là một việc làm khó. Bởi Tiếng Việt của chúng ta có nhiều quy tắc viết.
VD: Để biểu thị vỏ âm thanh của âm tiết /c/ có đến 3 cách viết: c; k ; q; /ng/ có 2 cách viết: ng ; ngh. Bên cạnh hiện tượng có nhiều cách viết cho một âm tiết thì việc phát âm theo tiếng địa phương cũng gây trở ngại rất lớn cho việc học viết chính tả.
Dễ nhận thấy HS lớp Một phát âm sai vần, sai âm đầu,và sai cả âm cuối.
Hãy nghe HS đọc: “cánh buồm” thành “cánh bườm”, “cá rô” thành “cá gô”, “bàn ghế” thành “bàng ghế”. Vậy thì làm cách nào để HS viết đúng chính tả?.
lúc đầu, sau đó thì đa số trẻ bắt đầu mất trật tự, không chú ý hoặc làm việc riêng. Phải làm thế nào để thu hút mọi HS trong lớp vào việc học mà không gây cho các em cảm giác mệt mỏi, là vấn đề vô cùng khó khăn đối với một GVCN lớp Một. Bởi vì chỉ khi HS tự giác tham gia vào các hoạt động học thì lúc đó các em mới thực sự tiếp thu bài học và biến sự “hiểu biết” thành kiến thức, kĩ năng của chính mình. Qua nhiều năm dạy lớp 1, tôi đã cố gắng đi tìm lời đáp cho câu hỏi: “Làm thế nào để thu hút HS tích cực, tự giác tham gia các HĐ học tập?” Sau khi tìm hiểu, thử nghiệm tôi nhận ra rằng: HS rất hứng thú khi được tham gia TCHT. Thực tế cho thấy, TCHT giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho tiết học thêm sinh động, nhẹ nhàng và hiệu quả, tạo cho lớp học không khí hào hứng, sôi nổi, tránh cho HS cảm thấy nhàm chán. Và quan trọng, nó khơi dậy tính tích cực của HS trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, phát hiện kiến thức mới theo hướng đổi mới PPDH. Chính vì lẽ đó, bản thân tôi là GV trực tiếp giảng dạy lớp 1, tôi không khỏi trăn trở băn khoăn, suy nghĩ và lựa chọn đề tài nghiên cứu: ‘Tổ chức trò chơi giúp học sinh học tốt phân môn học vần ở lớp 1” với mong muốn thu hút HS vào các giờ học, đem lại hiệu quả cho các giờ học. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU - Nhằm giúp cho HS có thói quen học tập để tạo hứng thú học tập và tự củng cố được kiến thức của mình, tích cực HĐ tiếp nhận kiến thức. - Tạo môi trường không khí lớp học sinh động thoải mái phù hợp với tâm lý của trẻ “Vừa học vừa chơi”. - Tạo sự gắn bó thân thiện giữa các em HS với nhau, giữa GV và HS. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU - Hệ thống trò chơi và quy trình tổ chức trò chơi dạy Học vần ở lớp 1. 4. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu trong thời gian từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2019 PHẦN II. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1. Mục tiêu của việc dạy học Học vần Mục tiêu cao nhất của việc dạy học Tiếng Việt là rèn cho HS bốn kĩ năng sử dụng tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết. Trong đó, Học vần là phân môn khởi đầu giúp HS chiếm lĩnh và làm chủ một công cụ mới để sử dụng trong học tập và giao tiếp. Vì vậy, có thể nói, Học vần là phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng trong môn Tiếng Việt ở TH. Mục tiêu dạy học Học vần cũng giống như các phân môn khác. Tuy nhiên, với HS, kĩ năng đọc và viết còn nhiều mới lạ, không phải HS nào cũng được làm quen trước khi bước vào lớp 1. Bởi vậy, theo quan điểm hiện hành, mục tiêu đặc biệt cần đạt tới của phân môn Học vần là dạy chữ, tức là làm thế nào để HS biết đọc, biết viết một cách nhanh nhất. 2. Nội dung, chương trình phân môn Học vần Trong chương trình môn Tiếng Việt 1, phân môn Học vần được giảng dạy trong vòng 21 tuần, mỗi tuần dạy 5 bài. Mỗi bài được dạy trong 2 tiết, thời lượng mỗi tiết dạy là 35 phút, giữa hai tiết có 5 phút nghỉ giải lao. Nội dung của phân môn Học vần gồm hai phần. Phần một dạy về hệ thống âm, chữ ghi âm và thanh điệu bao gồm 28 bài đầu. Phần hai dạy về hệ thống vần, gồm 75 bài tiếp theo. 3. Đặc điểm nhận thức của học sinh Tiểu học 3.1. Tri giác Tri giác của HSTH nói chung và của HS lớp 1 nói riêng gắn liền với hành động và hoạt động thực tiễn, mang nặng tính cảm xúc. HS lớp 1 hình thành HĐ quan sát, nhờ đó mà tri giác của các em có mục đích. Trò chơi là một dạng hoạt động thực hành thú vị, hấp dẫn, nó có thể kích thích tri giác của HS. Do vậy, khi tổ chức trò chơi, GV cần hướng dẫn HS quan sát (có thể sử dụng tranh hướng dẫn, ví dụ mẫu, GV chơi thử). Các trò chơi cần phong phú, đa dạng để tránh nhàm chán. 3.2. Chú ý Chú ý của HSTH chủ yếu vẫn là chú ý không chủ định. HS lớp 1 thường chỉ chú ý đến những cái mà các em thấy thích thú, nổi bật. Chú ý của các em không bền, thường các em chỉ tập trung trong khoảng 30 – 35 phút. Sự chú ý của HS còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như nhịp độ bài học, tính khó dễ của bài, môi trường xung quanh, .... 3.3. Trí nhớ HS lớp 1 không xác định được mục đích, nội dung và cách thức để ghi nhớ. Do vậy, các em ghi nhớ theo ý thích của bản thân. Đối với HS lớp 1, ghi nhớ trực quan – hình tượng tốt hơn ghi nhớ từ ngữ − logic. Các em có khuynh hướng ghi nhớ máy móc bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần. TCHT là một HĐ hấp dẫn và qua hoạt động này, HS sẽ ghi nhớ dễ dàng hơn, bền vững hơn nội dung của bài học 3.4. Tưởng tượng Tưởng tượng của HS lớp 1 còn tản mạn, ít có tổ chức. Các hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững, gắn liền với những hình ảnh sự vật cụ thể, chưa có tính sáng tạo. Khi tổ chức trò chơi, GV cần chú ý lồng ghép những kiến thức cần hình thành hoặc ôn tập vào những tình huống thú vị, gắn liền với cuộc sống của trẻ để trẻ dễ dàng tưởng tượng ra. 3.5. Tư duy Tư duy của HS lớp 1 là tư duy cụ thể, mang tính hình thức bằng cách dựa vào những đặc điểm trực quan của những đối tượng, hiện tượng cụ thể. Do vậy, GV cần dựa vào những đặc điểm này để lựa chọn, xây dựng trò chơi phù hợp và chuẩn bị tranh ảnh trực quan kích thích tư duy cho HS. 3.6. Ngôn ngữ Ngôn ngữ của HS được hình thành thông qua giao tiếp và HĐ. Ngôn ngữ của HS lớp 1 còn nhiều hạn chế, đặc biệt là ngôn ngữ viết. Do đó, khi tổ chức trò chơi, GV nên tổ chức cho HS chơi nhóm để tăng cường giao lưu giữa các HS và tạo cơ hội để HS phát triển ngôn ngữ viết. 4. Vai trò của trò chơi học tập đối với sự phát triển của HS Học trong quá trình vui chơi là quá trình lĩnh hội tri thức, vốn kinh nghiệm xã hội nhẹ nhàng, tự nhiên, không bị gò bó, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí ở HS. Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú tự nguyện, làm giảm sự căng thẳng thần kinh ở các em, giữ được nét hồn nhiên trẻ thơ. Trong quá trình chơi, để thực hiện chức năng của HĐ chơi, giải quyết nhiệm vụ chơi, HS phải sử dụng các giác quan để tiếp nhận thông tin ngôn ngữ, phải tự phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hoá, tuỳ theo nhiệm vụ nhận thức của trò chơi, làm cho các giác quan của trẻ tinh nhạy hơn, ngôn ngữ mạch lạc hơn, tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh, các thao tác trí tuệ được hình thành. Qua TCHT, HS lĩnh hội, tiếp thu và khắc sâu được nhiều tri thức, nhiều khái niệm và hình thành được những biểu tượng rõ rệt về các sự vật, hiện tượng xung quanh. TCHT còn là phương tiện rất tốt để khắc phục những mặt khó khăn trong quá trình tư duy của HS. TCHT có ảnh hưởng sâu sắc tới việc giáo dục đạo đức cho HS. Nó góp phần GD cho các em tính thật thà, tính tổ chức, tính tự lực, tính đoàn kết, ... II. CƠ SỞ THỰC TIỄN Thực tiễn cho thấy HS lớp Một thuộc tương đối nhanh bài vừa học. Đó là do đặc điểm tâm lý lứa tuổi: HS lớp Một ghi nhớ máy móc, tư duy trực quan, khả năng tập trung chú ý không cao, nên rất dễ dẫn dến học vẹt. Từ đặc điểm tâm lý này, người giáo viên nên có cách riêng để tổ chức cho HS có nhiều cơ hội luyện đọc. Việc luyện đọc âm, vần vừa học càng nhiều càng giúp các em nhớ chữ và đọc trôi chảy. Mặt khác cũng do tâm lý lứa tuổi, HS lớp Một không bao giờ tập trung vào một việc làm quen thuộc trong một thời gian dài. VD: Khi GV muốn HS tự rèn luyện kĩ năng đọc từ và câu trong bài học, GV thường đưa ra yêu cầu: “các em hãy nhìn lên bảng và đọc bài” thì chỉ ít phút sau đó lớp học đã lao xao tiếng nói và sẽ có nhiều em nói chuyện, làm việc riêng. Vậy thì làm cách nào để HS tự giác, mong muốn đọc được những con chữ kia? Hãy kích thích tính tò mò và tính hiếu thắng của trẻ con bằng những trò chơi có lồng ghép nội dung học tập. Cụ thể GV sẽ thay yêu cầu: “Các em hãy nhìn lên bảng và đọc bài!”, bằng lời mời gọi: “Chú ong này đang cõng một chữ, bông hoa này cũng đang có một chữ. Các em hãy giúp chú ong này tìm đúng bông hoa để khi đọc lên ta sẽ có một từ. Chắc chắn 100 % học sinh trong lớp sẽ “hướng mắt nhìn, miệng đọc” để tìm cho ra chữ. - Đối với HS viết đúng chính tả Tiếng Việt là một việc làm khó. Bởi Tiếng Việt của chúng ta có nhiều quy tắc viết. VD: Để biểu thị vỏ âm thanh của âm tiết /c/ có đến 3 cách viết: c; k ; q; /ng/ có 2 cách viết: ng ; ngh. Bên cạnh hiện tượng có nhiều cách viết cho một âm tiết thì việc phát âm theo tiếng địa phương cũng gây trở ngại rất lớn cho việc học viết chính tả. Dễ nhận thấy HS lớp Một phát âm sai vần, sai âm đầu,và sai cả âm cuối. Hãy nghe HS đọc: “cánh buồm” thành “cánh bườm”, “cá rô” thành “cá gô”, “bàn ghế” thành “bàng ghế”. Vậy thì làm cách nào để HS viết đúng chính tả?. III. TỔ CHỨC CÁC TRÒ CHƠI TRONG PHÂN MÔN HỌC VẦN 1. Trò chơi dạy âm mới. Trò chơi “Ghép chữ” 1. 1. Chuẩn bị: - Các mảnh ghép chữ cái bằng xốp (bìa cứng) có gắn nam châm. 1.2. Cách tiến hành: - GV chia lớp thành các nhóm nhỏ. Chữ cái được chia thành bao nhiêu miếng thì mỗi nhóm sẽ có bấy nhiêu thành viên. - GV phổ biến luật chơi: Cô có một số mảnh ghép bằng xốp. Nhiệm vụ của các nhóm là ghép các mảnh đó thành một chữ cái. Mỗi bạn chỉ có một lượt chạy lên ghép. Nhóm nào ghép đúng và nhanh nhất sẽ là đội thắng cuộc. Thời gian cho các nhóm là 5 phút. - HS tiến hành chơi. - GV và HS cùng kiểm tra kết quả, khen thưởng đội thắng cuộc. 2. Các trò chơi ôn tập âm 2.1. Trò chơi 1: Tinh mắt tìm chữ 2.1.1. Chuẩn bị: - GV chuẩn bị cho mỗi cặp chơi một tờ giấy, trong đó ghi lộn xộn các chữ cái không theo một chiều nhất định. - Mỗi cặp chơi tự chuẩn bị hai chiếc bút màu khác nhau. 2.1.2. Cách tiến hành: - Hai người trong cặp chơi sẽ tìm những chữ cái theo thứ tự trong bảng chữ cái. Đầu tiên cả hai tìm chữ “a”, ai tìm được trước sẽ dùng bút màu của mình khoanh lại, sau đó lại tìm chữ cái “b”, cứ tiếp tục như vậy cho đến chữ cái cuối cùng trong bảng chữ cái. Hết thời gian quy định, hai người sẽ cùng đếm số chữ cái mà mình đã khoanh được, ai tìm được nhiều hơn là người thắng cuộc. 2.2. Trò chơi : Bàn cờ chữ cái 2.2.1. Chuẩn bị: - Bàn cờ ghi các chữ cái cần ôn (khoảng 4 chữ cái). - 1 quân xúc xắc là một khối vuông: 1cm x 1cm mỗi mặt ghi 1 chữ cái ứng với các chữ cái ghi trên bàn cờ. - 1 ống (hoặc ca, cốc con) để lắc quân xúc xắc và hạt làm quân đi. 2.2.2. Cách tiến hành: - 4 HS chơi trên một bàn cờ. Trước khi chơi cho các HS "oẳn tù tì", HS nào thắng sẽ được đổ quân xúc xắc trước. HS cho quân vào ống (ca, cốc) lắc nhiều lần rồi đổ ra, mặt trên của quân xúc xắc có chữ cái nào ứng với chữ cái ghi trên bàn cờ thì HS được lấy 1 hạt đặt vào ô ghi chữ cái đó trên bàn cờ. Rồi tiếp tục các HS bên cạnh đi tiếp (theo chiều kim đống hồ). - Trong quá trình chơi, nếu HS nào đổ quân xúc xắc có chữ cái trùng với chữ cái đã có quân đi rồi thì coi như mất lượt đi. HS nào có quân xếp kín các ô trên bàn cờ, HS đó thắng cuộc. 2.3. Trò chơi 3. Giải ô chữ 2.3.1. Chuẩn bị: - Một ô chữ khổ to để trình chiếu hoặc treo lên bảng và các câu hỏi gợi ý để giải ô chữ. 2.3.2. Cách tiến hành: - Trò chơi này có thể tiến hành chung cả lớp hoặc chia lớp học thành nhiều nhóm để các nhóm thi đua với nhau, tùy theo số lượng HS trong lớp mà GV có thể tổ chức cho phù hợp. - GV nêu câu hỏi gợi ý để HS giải từng ô chữ hàng ngang. HS nào hoặc nhóm nào giải được trước sẽ ghi điểm (giải mỗi ô chữ hàng ngang được 10 điểm, giải ô chữ hàng dọc được 30 điểm). Kết thúc trò chơi, ai hoặc nhóm nào ghi được nhiều điểm, nhóm đó sẽ thắng. 3. Các trò chơi dạy vần mới. Trò chơi “ Câu đố” 3.1. Chuẩn bị: - GV: chuẩn bị các câu đố chứa vần của bài học. - HS: chuẩn bị phấn, bảng con. 3.2. Cách tiến hành: - GV chia lớp thành các đội (các đội có số thành viên bằng nhau). - GV nêu cấu đố, các đội suy nghĩ, bàn bạc và đưa ra câu trả lời. Các đội viết đáp án vào bảng con và giơ lên. Đội nào có đáp án đúng được 10 điểm. - Sau khi đọc hết câu đố, đội nào nhiều điểm hơn là đội thắng cuộc. 4. Các trò chơi ôn tập vần 4.1. Trò chơi 1: Cặp từ cùng vần 4.1.1. Chuẩn bị: GV chuẩn bị cho mỗi HS một phiếu trò chơi. (phụ lục 1) cộng sông 4.1.2. Cách tiến hành: - GV hướng dẫn chơi: Đây là 1 cặp . Các con hãy tìm các cặp tương tự và ghi vào bảng. - HS nào tìm được nhiều từ nhất thì chiến thắng 4.2. Trò chơi 2. Tìm từ trong bảng 4.2.1. Chuẩn bị: - Mỗi HS một phiếu trò chơi. (phụ lục 2) 4.2.2. Cách tiến hành: - GV hướng dẫn chơi: Trong ngôi nhà có nhiều các con vật. Các con hãy tìm ở hàng ngang, hàng dọc tên những con vật đó, dùng bút chì khoanh vào, sau đó viết lại vào bảng. Bạn nào tìm được nhiều, nhanh nhất là người thắng cuộc. 4.3. Trò chơi 3. Chiếc nón kì diệu 4.3.1. Chuẩn bị: - Hình tròn bằng xốp hoặc bìa cứng có trục ở giữa, trên trục gắn một mũi tên bằng bìa cứng. Trên hình tròn có chia các ô ghi các vần cần ôn. Cách tiến hành: - GV chia lớp thánh các nhóm có số lượng thành viên bằng nhau. - Các nhóm oẳn từ tì xem nhóm nào được quay trước. Mũi tên dừng ở vần nào, GV sẽ đọc một câu hỏi mà đáp án có chứa vần vừa quay vào, các nhóm bàn bạc tìm xem đó là từ nào và viết vào bảng. Khi có hiệu lệnh, các nhóm phải giơ bảng. Nhóm nào tìm được đúng từ được 10 điểm. - Sau 2 lượt chơi, nhóm nào nhiều điểm nhất sẽ giành chiến thắng. 5. Một số trò chơi thiết kế trên phần mềm Violet Violet là phần mềm công cụ giúp cho GV có thể tự xây dựng được các bài giảng điện tử theo ý tưởng của mình một cách nhanh chóng. So với các phần mềm khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình ảnh, chuyển động và tương tác... rất phù hợp với HSTH. Giao diện tiếng Việt rất dễ sử dụng, phù hợp với những người không chuyên tin học. Chức năng soạn thảo phong phú, cho phép nhập và chỉnh sửa các dữ liệu văn bản, công thức toán, âm thanh, hình ảnh, phim, các hiệu ứng chuyển động và tương tác, Nhiều mẫu trò chơi được lập trình sẵn. Những trò chơi này cũng đặc biệt rất thích hợp trong việc củng cố kiến thức trong môn học Học vần. Chính vì vậy, tôi thường sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần trò chơi Học vần của mình. Các trò chơi này có thể sử dụng trong phần ôn bài cũ cũng như cũng cố bài. 5.1.Trò chơi “ Sút luân lưu” 5.1.1. Thiết kế trò chơi “ Sút luân lưu”: - Vào công cụ Violet trên thanh Toolbar của PP, chọn Thêm công cụ Violet rồi chọn tiếp Game –Sút luân lưu và nhập các dữ liệu vào phần mềm. 5.1.2. Tổ chức chơi: - GV hướng dẫn HS chơi bằng cách kích chột vào đáp án đúng nhất. Nếu HS chơi đúng thì được thưởng, sai thì quyền chơi thuộc về bạn khác. 5.2. Trò chơi “ Tìm kho báu” 5.2.1. Thiết kế trò chơi “ Tìm kho báu”: Vào Violet trên thanh công cụ PP. Chọn trò chơi “ Tìm kho báu”. Thiết lập vị trí các câu hỏi và các chướng ngại vật. Nhập dữ liệu câu hỏi và đáp án trả lời. 5.2.2. Tổ chức chơi: - GV hướng dẫn HS chơi bằng dùng chuột di chuyển chuột trong các ô vuông. Nếu HS chơi đúng thì được đi tiếp, sai thì phải lựa chọn đi đường khác để về đích tìm kho báu. 5.3. Trò chơi “ Đua xe” 5.3.1. Thiết kế trò chơi “ Đua xe”: Vào Violet trên thanh công cụ PP. Chọn trò chơi “ Đua xe”. Nhập dữ liệu câu hỏi và đáp án trả lời. 5.3.2. Tổ chức chơi: - GV hướng dẫn HS chơi bằng cách kích chột vào đáp án đúng nhất.HS chơi đúng thì được thưởng, sai thì quyền chơi thuộc về bạn khác. 5.4. Trò chơi “ Chú khỉ thông minh” 5.3.1. Thiết kế trò chơi “ Chú khỉ thông minh”: Vào Violet trên thanh công cụ PP. Chọn trò chơi “ Chú khỉ thông minh”. Nhập dữ liệu câu hỏi và đáp án trả lời. 5.3.2. Tổ chức chơi: - GV hướng dẫn HS chơi bằng cách kích chột vào đáp án đúng nhất. Nếu HS chơi đúng thì được thưởng, sai thì quyền chơi thuộc về bạn khác. IV. KẾT QUẢ TCHT là một loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong các giờ học của HS Tiểu học. TCHT tạo ra không khí vui tươi, hồn nhiên, sinh động trong giờ học. TCHT còn kích thích trí tưởng tượng, tò mò ham hiểu biết ở trẻ. Từ những bài học có sử dụng TCHT, các tiết học đã trở nên sinh động, không khí lớp được thoải mái, HS tích cực hoạt động nhiều hơn. Qua đó, các em rèn luyện được khả năng nhanh nhẹn, khéo léo và tạo cho các em mạnh dạn, tự tin trước tập thể. Thông qua TCHT, không chỉ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập mà còn giúp các em tự tin hơn, có cơ hội khẳng định mình và tự đánh giá nhau trong học tập. Qua đó, rèn luyện cho các em óc quan sát, trí nhớ phát triển, tư duy và tiếp thu bài có hiệu quả hơn. TCHT giúp cho các em ghi nhớ kiến thức đã học. Các em có sự tiến bộ rõ rệt ở hai mặt kĩ năng giao tiếp và kĩ năng đọc, viết Tiếng việt. Điều đó được thể hiện rõ qua hai bảng số liệu sau: BẢNG ĐỐI CHỨNG GIỮA HAI LỚP ĐỐI CHỨNG (CÓ VÀ KHÔNG TỔ CHỨC TC) SỐ HS ĐƯỢC KHẢO SÁT HS hứng thú trong học tập, tiếp thu bài nhẹ nhàng HS ít hứng thú học tập, có biểu hiện lười học. KẾT QUẢ HỌC TẬP Chưa hoàn thành Hoàn thành Hoàn thành tốt SL % SL % SL % SL % SL % Có tổ chức 25 15 60 10 40 0 0 20 80 5 20 Không tổ chức 25 25 100 0 0 0 0 10 40 15 60 Hằng năm, HS lớp tôi phụ trách đều đạt chất lượng cao về môn Tiếng Việt nói riêng, chất lượng học tập nói chung. Trong đó, tỷ lệ hoàn thành tốt môn Tiếng Việt hằng năm năm sau đều cao hơn năm trước. Năm học Số HS Đánh giá, xếp loại môn Tiếng Việt Chưa HT Hoàn thành Hoàn thành tốt SL % SL % SL % 2016 - 2017 45 0 0 30 66.7 15 33.3 2017 - 2018 50 0 0 27 54 23 46 2018 – 2019 (Học kì 1) 49 0 0 24 49 25 51 PHẦN KẾT LUẬN I. KẾT LUẬN CHUNG TCHT có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển tâm lí, phát triển trí tuệ của HS, tạo hứng thú cho HS, nâng cao chất lượng DH, góp phần đổi mới PPDH. Việc tổ chức trò chơi trong phân môn Học vần lớp 1 một cách hiệu quả là một yêu cầu khách quan, ngày càng nhận được sự quan tâm của GV và PH. Khi tổ chức trò chơi dạy Học vần cho HS, GV phải nắm được các biện pháp, quy trình tổ chức trò chơi dạy Học vần và tổ chức trên cơ sở đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện đảm bảo cho việc DH hiệu quả. GV cần lựa chọn cách chơi sao cho trong mỗi trò chơi càng nhiều HS được tham gia càng tốt và cần tỏ thái độ quan tâm, khích lệ, động viên những HS chậm; HS chưa hoàn thành nhiệm vụ. Tránh để các em này có tâm lý “mình dở, mình luôn thua bạn”. GV cần tự học tập và rèn luyện cho mình khả năng quan sát, óc phán đoán và hiểu tâm lý trẻ để mỗi lần tổ chức trò chơi là một lần HS được tạo điều kiện để phát triển tối đa khả năng, kinh nghiệm, năng lực của mình. II. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ Các cơ quan giáo dục, các trường Tiểu học cần đầu tư CSVC cũng như đầu tư các sách tham khảo về tổ chức TCHT nói chung và trò chơi Học vần nói riêng cho GV. GV lớp 1 nên chú trọng đến việc tổ chức trò chơi dạy Học vần, đầu tư sưu tầm, thiết kế trò chơi Học vần và bồi dưỡng năng lực tổ chức trò chơi của chính mình. Các trường sư phạm cần chú trọng hơn đến phương pháp dạy học bằng trò chơi để cung cấp cho những GV tương lai một phương pháp dạy học hiệu quả, tích cực, góp phần vào công cuộc đổi mới PPDH. Trước yêu cầu đổi mới PPDH, đòi hỏi những người trực tiếp giảng dạy phải nghiên cứu tìm ra những biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, tư duy sáng tạo của HS. Một tiết dạy GV không chỉ nắm chắc nội dung kiến thức mà phải biết phối hợp vận dụng linh hoạt các phương pháp để không ngừng nâng cao kết quả DH đáp ứng yêu cầu ngày càng cao mục tiêu giáo dục Tiểu học. Trên đây là kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong quá trình DH, góp phần giúp HS lớp Một thêm hứng thú, say mê học Tiếng Việt. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, vẫn còn những hạn chế. Tôi mong muốn nhận được những đóng góp chân thành của quý thầy cô để giúp tôi hoàn thiện hơn nữa. Tôi xin chân thành cảm ơn. PHỤ LỤC 1 - Bài 59: Ôn tập thùng cung long trắng siêng kính chuông nhanh xuồng thưởng bình lạnh chiêng vàng sáng cộng bỏng măng sông sương PHỤ LỤC 2 - Bài 57: Ôn tập Í M Ó K N H X D L T Ô M Â Ơ T G Ă I Y L B Ư Ớ M S H Ò R P V E Ù T G I C 1. bướm 4. 2. 5. 3. 6. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ GD & ĐT – Sách giáo khoa Tiếng VIệt 1 (tập 1, 2) – NXB Giáo dục – Hà Nội, 2005. 2. Đặng Vũ Hoạt, Phó Đức Hoà – Giáo dục tiểu học – NXB Giáo dục – Hà Nội, 1997. 3. Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai – Tâm lí học tiểu học – NXB ĐHSP – Hà Nội, 2008. 4. Lê Phương Nga (chủ biên) – Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học I – NXB ĐHSP – Hà Nội, 2009.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_to_chuc_tro_choi_giup_hoc_sinh_hoc_tot.doc