Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1

Như chúng ta đã biết, Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng và cần thiết nhất ở bậc Tiểu học. Bên cạnh việc học Toán để phát triển tư duy logic, việc học Tiếng Việt sẽ giúp hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua môn Tiếng Việt, các em sẽ học được cách giao tiếp, truyền đạt tư tưởng, cảm xúc của mình một cách chính xác và biểu cảm. Tiếng Việt không những là “công cụ của tư duy” mà còn là bước đệm để hình thành nhân cách của một đứa trẻ.

Môn Tiếng Việt ở Tiểu học còn là chìa khóa để mở cửa cho các em đến với những môn học khác. Rèn luyện cho học sinh cả bốn kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp Một là đem lại cho các em kĩ năng đọc đúng, viết đúng. Ngoài ra còn làm giàu vốn từ, biết nói đúng các mẫu câu ngắn và tạo cho các em sự ham thích thơ văn. Đây là điều kiện chuẩn bị để các em học tốt hơn môn Tiếng Việt.

Kĩ năng đọc là sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và trong giao tiếp. Nếu kĩ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất trong hệ thống ngôn ngữ thì kĩ năng đọc có một vị trí quan trọng không thiếu được trong chương trình môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Cùng với kĩ năng viết, kĩ năng đọc giúp các em vận dụng chữ viết trong học tập. Khi biết đọc, biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy cô giảng trên lớp, sử dụng sách giáo khoa, sách tham khảo từ đó có điều kiện học tốt các môn học học khác có trong chương trình.

 

docx16 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 06/12/2023 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 7Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong câu thơ sau đó cho học sinh luyện đọc theo to, nhỏ, nhẩm, thầm; luyện đọc nối tiếp cá nhân, nhóm, cả lớp.
Khi học sinh đã nắm được các kí hiệu tôi chỉ giao việc 1 lần, câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng đảm bảo 100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc tôi đứng vị trí thích hợp để quan sát tất cả học sinh trong quá trình thực hiện.
3. Hướng dẫn học sinh cách phát âm, ghi nhớ âm, vần
 	Trong dạy học Tiếng Việt, kĩ năng đọc là một trong những kĩ năng quan trọng hàng đầu mà học sinh hướng tới. Để học sinh đọc tốt thì tôi đã hướng dẫn học sinh cách đọc qua cách phát âm, ghi nhớ âm, vần.
Trước tiên để giúp học sinh ghi nhớ các âm tốt, tôi chú ý tới việc rèn kĩ học sinh cách ghi nhớ các âm qua việc phát âm. Khi phát âm tôi luôn cố gắng phát âm thật to rõ ràng, chuẩn xác để thông qua đó học sinh có thể tự mình phát âm và ghi nhớ được. Với những âm, vần dễ nhầm lẫn, tôi thường có sự so sánh, phân tích cụ thể khi phát âm ( môi – răng – lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi,...)
Ví dụ: Khi dạy âm x/s, tôi hướng dẫn học sinh nắm rõ cách phát âm như sau:
+ Âm x: lưỡi ép sát răng, bật lưỡi cho hơi thoát ra, dứt khoát.
 + Âm s: lưỡi và hai hàm răng sát nhau, bật hơi mạnh, phát âm nghe nặng hơn.
Ví dụ: Khi học sinh lẫn giữa vần có âm đầu và âm cuối /ac/ đọc thành /at/ tôi thường hướng dẫn các em như sau:
+ Vần /ac/: mở miệng rộng, hơi thoát ra gần trong chân lưỡi.
+ Vần /at/: môi mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên, hơi ra trên mặt lưỡi
Với những học sinh nói ngọng, tôi yêu cầu các em quan sát thật kĩ khi cô phát âm và cho các em luyện phát âm nhiều hơn để kịp thời sửa lỗi cho các em. Còn nếu các em phát âm chưa chuẩn thì trong quá trình dạy tôi sẽ giúp em cải thiện từ từ.
Giúp học sinh đọc tốt thì việc ghi nhớ các âm rất quan trọng, tôi giúp học sinh nắm chắc 23 phụ âm và 14 nguyên âm của Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục. Phân biệt nguyên âm, phụ âm qua phát âm dựa vào cách phát âm. Biết ghép phụ âm đầu với nguyên âm tạo thành tiếng có thanh ngang, ghép tiếng có thanh ngang với các dấu thanh tạo thành tiếng khác nhau và đọc luôn được các tiếng đó.
Khi dạy chữ, tôi mô phỏng nét cho học sinh, tôi chỉ vào chữ in thường, chữ viết thường cho học sinh đọc để các em nhận và nhớ rõ mặt chữ.
Ví dụ: Khi dạy âm /a/ tôi khắc sâu cho học sinh bằng cách:
Gắn lên bảng chữ in thường và nói: đây là chữ /a/ in thường. Gồm một cong kín và một nét thẳng. Cho học sinh đọc lại (cá nhân, nhóm, tổ, lớp). Sau đó gắn chữ /a/ viết thường lên bảng và phân tích các nét (gồm một nét cong kín và một nét móc ngược). 
Sau khi dạy xong mỗi âm tôi dùng chữ in thường đó gắn vào bảng cài ngay một góc bảng. Mỗi ngày, bạn lớp trưởng sẽ cho cả lớp đọc lại các âm. Với cách đó giúp học sinh ghi nhớ mặt chữ và đọc tốt hơn. Đồng thời để khắc sâu các âm vừa học, tôi viết lên bảng bằng chữ viết thường và cho học sinh luyện đọc.
Đối với những âm, mà học sinh hay quên thì trong khi dạy tôi thường gắn liền với những hình ảnh trực quan quen thuộc mà các em thấy hàng ngày để học sinh ghi nhớ. Chẳng hạn với âm “ ch”, tôi gắn hình con chó học sinh nhận biết con chó có âm “ch” đứng đầu và các em sẽ ghi nhớ được âm “ch” tốt hơn; âm “kh” gắn với con “khỉ”, âm “gh” gắn với cái “ghế”,
Để khắc phục tình trạng học vẹt cho học sinh thì tôi thường kiểm tra việc ghi nhớ cho các em thông qua việc đọc cho các em viết một số tiếng chứa âm đã học. Trước những buổi học âm, vần mới tôi luôn dành 10 phút để đọc lại những âm, vần đã học cho em viết vào vở. Đây là một trong những phương pháp giúp cho giáo viên kiểm tra được trình độ của tất cả học sinh.
Từ việc nắm chắc được các âm thì việc chuyển sang học phần vần, tiếng rất thuận lợi. Từ các âm mà học sinh đã được học giáo viên sẽ dễ dàng hình thành các mẫu vần rồi từ các vần đã học các em lại có thể tạo thành các tiếng qua việc thêm âm đầu. 
Khi dạy phần vần giáo viên phải giúp học sinh nắm chắc được 4 mẫu vần cơ bản và cấu tạo của từng mẫu vần để khi đưa vào mô hình không bị sai. 
 	Ví dụ: Khi dạy vần “ai” 
Tôi thường cho học sinh nhận biết cấu tạo của vần “ai” gồm có âm chính là a , âm cuối là i ( ngắn).
 	Với một số mẫu vần dễ nhầm lẫn, thì khi học phải có sự so sánh.
Ví dụ: Khi dạy vần “ ay” 
 	+ Giống nhau: đều có âm chính là a.
+ Khác nhau: vần ay kết thúc bằng âm cuối y ( y dài) còn vần ai thì kết thúc bằng âm cuối i ( i ngắn).
+ Phát âm: Âm a được ghép với i thì đọc ai (phát âm nhẹ)
Âm a được ghép với y thì đọc ay (phát âm nặng, nhấn mạnh)
Khi ghép với các âm trong bảng chữ cái ta được tiếng hoặc từ có nghĩa
Vần ai: tai (chỉ bộ phận “tai”), Vần ay: tay (chỉ bộ phận “tay”)
 	Khi rèn đọc cho học sinh, chú trọng luyện đọc cá nhân nhiều hơn, sau đó cho học sinh đọc theo nhóm, cả lớp vừa để củng cố vừa để kiểm tra xem em nào còn đọc sai, đọc yếu để kịp thời sữa chữa và rèn luyện. Đặc biệt khi hướng dẫn đọc, những tiếng nào học sinh không đọc được tôi thường dùng tấm bìa che dấu thanh để học sinh đọc tiếng thanh ngang. Nếu tiếng thanh ngang đó học sinh không đọc được, giúp học sinh nhận ra âm đầu, vần của tiếng đó, từng bước như thế học sinh sẽ đọc được.
Với việc áp dụng biện pháp này trong rèn kĩ năng đọc cho học sinh, tôi thấy học sinh nắm chắc các âm, vần và từ đó giúp cho học sinh khi đọc bài tốt hơn, chất lượng đọc ngày càng được cải thiện.
4. Luyện đọc đúng, đọc có ngữ điệu
a. Rèn cho học sinh đọc đúng
Việc đọc đúng được tiến hành từng bước để chỉnh sửa, uốn nắn.
Bước 1: Rèn cho học sinh phát âm đúng (Đúng phụ âm đầu, đúng vần, đúng phụ âm cuối, đúng dấu thanh)
Bước 2: Luyện cho học sinh đọc đúng một số từ khó. Bước này tôi dựa vào trình độ của lớp tôi, tôi đã chọn 1 số từ ngữ cần luyện đọc hoặc cho các em tự phát hiện từ ngữ khó.
Bước 3 : Luyện cho học sinh đọc đúng cụm từ khó để tiến hành tốt khâu này. GV phải đọc mẫu chuẩn xác với cường độ đủ để học sinh nghe rõ ràng, tốc độ vừa đủ cho học sinh nghe kịp và hiểu được.
b. Luyện cho học sinh đọc bằng mắt
Việc này tôi hướng dẫn học sinh không đánh vần từng chữ, cũng không phải đọc nhẩm trong miệng mà có thể nhìn bằng mắt lướt qua các chữ, từ đó đọc trọn được một câu. Thực hiện điều này tôi hướng dẫn học sinh dùng tay chỉ lướt theo các chữ đang đọc và đồng thời cô cũng đọc thầm theo để phát hiện học sinh không đọc cũng giơ tay.
c. Luyện cho học sinh lắng nghe khi giáo viên đọc mẫu
Yêu cầu ở phần này là giáo viên đọc mẫu phải chuẩn.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy cô của mình là thần tượng. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường bắt chước cô từ lời nói, cử chỉ, chữ viết.
Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng của giáo viên. Vì vậy giáo viên cố gắng cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác.
Việc quan trọng nhất là rèn luyện thói quen tập trung chú ý khi giáo viên đọc mẫu. Học sinh có lắng nghe thì việc đọc mẫu mới có được hiệu quả tốt nhất.
d. Luyện cho học sinh có ý thức về ngữ điệu khi đọc
Tôi hướng dẫn học sinh đọc kĩ bài ứng dụng (Trong phần học vần) hay bài tập đọc trong phần luyện tập tổng hợp. Hướng dẫn luyện đọc nhiều lần các câu dài có nhiều dấu phẩy hoặc những câu có những chỗ cần ngắt giọng theo yêu cầu nội dung bài, cũng cần rèn cho học sinh đọc các câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm.
Ví dụ: Khi cho học sinh luyện đọc các câu trong bài “ Họ nhà dế” SGK Tiếng Việt 1 – CGD , tôi tập trung rèn luyện cho học sinh đọc các câu sau và chỉ rõ những chỗ cần ngắt hơi, nghỉ hơi( Có kí hiệu /,//), một gạch là ngắt hơi, hai gạch là nghỉ hơi.
“ Các anh dế trẻ đang độ khỏe /, đi nhanh /, ăn nhanh /, làm nhanh //. Có anh trẻ khỏe /, cư xử chẳng có văn hóa /, cứ vênh mặt /, nghênh ngang /, khệnh khạng //.”
Từ việc hướng dẫn cụ thể như vậy, học sinh biết ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, nên giọng đọc chuẩn xác, có ý thức phát âm tốt. Trong khi tiến hành luyện đọc cho các em, tôi thường tổ chức cho các đọc nối tiếp các câu trong bài. Khi tổ chức hình thức này tôi thường quy định các em ngồi cùng dãy ( ngang, dọc ) tự động đọc, tôi có thể linh hoạt khi thì gọi em đầu tiên theo dãy dọc, lúc thì gọi em ngồi phía bên trái theo dãy hàng ngang. Bằng cách này tôi yêu cầu tất cả học sinh trong lớp phải chú ý bạn khác đọc. Cuối mỗi giờ học tôi thường tổ chức cho các em thi đọc, đọc hay, đọc đúng để học thuộc lòng hai, ba câu thơ có trong bài thơ hoặc hai, ba câu văn có trong bài văn theo nhiều hình thức như cá nhân, tổ, nhóm.
5. Rèn kĩ năng đọc cho học sinh qua các trò chơi học tập
Trò chơi học tập là một trong những loại hình hoạt động vui chơi có nhiều tác dụng trong các giờ học của học sinh tiểu học. Ngoài việc tạo bầu không khí vui tươi thoải mái thì nó còn kích thích được trí tưởng tượng tò mò ham hiểu biết ở trẻ.
Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp Một, đây là độ tuổi mà các em vừa học vừa chơi nên sự tập trung chú ý của các em thường không được kéo dài như ở các học sinh lớp trên. Vì vậy trong quá trình học tập việc lồng ghép các trò chơi học tập là rất cần thiết. 
Trong mỗi tiết day, tôi thường lồng ghép vào đó một số trò chơi như: trò chơi đi chợ, trò chơi chèo thuyền...Qua trò chơi đó, các em không chỉ thư giản mà còn có thể củng cố, khắc sâu kiến thức đã học tập của mình và kiểm tra kết quả học tập của bạn.
Ví dụ: Trò chơi “ Chèo thuyền”
Một bạn quản trò sẽ đứng ra tổ chức trò chơi, cả lớp cùng tham gia chơi. Mỗi học sinh được nhắc tên sẽ đọc tiếng có chứa âm hoặc vần của mình vừa học để cả lớp phân tích. Những bạn đọc đúng, phát âm chuẩn sẽ được tiếp tục “Chèo thuyền” (nêu tên bạn khác), bạn nêu chưa được sẽ bị phạt bằng các trò vận động nhỏ.
Tôi thường chọn các học sinh chậm để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
Với phương pháp này, học sinh rất hứng thú nên việc tiếp thu bài nhanh hơn và nhớ lâu hơn.
6. Rèn luyện tính kiên trì khi đọc cho học sinh
 Ở độ tuổi tiểu học sự tập trung chú ý khi học của các em chưa cao, nhiều em trong quá trình học còn làm việc riêng đều này gây ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng đọc của các em. Dường như các em chưa ý thức được tầm quan trọng của việc đọc, nhiều em đọc chỉ dựa vào cảm xúc của cá nhân thích thì các em đọc, nếu không thích thì các em không đọc. Vì vậy tôi nhận thấy, việc rèn luyện tính kiên trì cho học sinh khi đọc là rất cần thiết.
 Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, tôi cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen.
Ví dụ: “Em đã đọc tốt hơn song cần cố gắng thêm tí nữa”; “ Em cần cố gắng lên nhé” Hoặc có thể khuyến khích động viên bằng việc tặng cho học sinh những bông hoa điểm tốt Từ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. 
Bên cạnh những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác.Với những em học sinh này thì càng phải nghiêm khắc hơn để các em cố gắng học tốt hơn.
7. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau
Trong môn Tiếng Việt 1 – Công nghệ giáo dục trọng tâm là “thầy thiết kế - trò thi công”. Trong quá trình rèn kỹ năng đọc cho học sinh, tôi luôn chú trọng việc rèn đọc cho các em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nền nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
Ví dụ: Khi dạy bài 2: Âm (TV1 - CGD - T1; Tr19) tôi yêu cầu học sinh thực hiện nhóm đôi phát âm âm a và b, từ đó hai em cùng quan sát nhau cách phát âm nhận biết hình môi, luồng hơi để phân biệt phụ âm và nguyên âm. Nói cho nhau nghe cách phát âm hoặc học sinh có thể sửa sai cho bạn. Qua đó vừa giúp cải thiện được chất lượng đọc cho học sinh, vừa lại phát huy được tính tích cục chủ động trong học tập cho học sinh.
	Ngoài những biện pháp nêu trên thì trong quá trình dạy đọc, tôi còn tìm thêm các bài đọc trong vở thực hành Tiếng Việt hay trên mạng viết lên bảng lớp để cho học sinh rèn đọc vào các tiết luyện Tiếng Việt, tự học nhằm giúp học sinh khắc sâu và củng cố các âm, vần vừa được học.
8. Phân loại học sinh và có biện pháp cụ thể
	Hàng tuần và hàng tháng tôi thường làm bài kiểm tra đọc, viết để nắm trình độ của từng học sinh, cũng từ đó tôi phân loại ra thành 3 nhóm đối tượng và có biện pháp giảng dạy cụ thể.
	Nhóm đối tượng 1: Đọc tốt, trôi chảy, viết đúng chính tả.
Với nhóm này, tôi yêu cầu các em phải đọc hết bài trong sách giáo khoa với tốc độ đảm bảo đúng yêu cầu mục tiêu. Ngoài ra tôi thường xuyên in những bài ngoài sách giáo khoa, mượn Thư viện trường những bộ truyện tranh, những quyển báo Thiếu niên, Nhi đồng để các em rèn thêm kĩ năng, tốc độ đọc. 
	Nhóm đối tượng 2: Đọc đúng, viết đúng chính tả, song vẫn còn một số lỗi và tốc độ đọc chưa bằng nhóm 1. Tôi đã ghép gặp cùng với các bạn nhóm đối tượng 1 để cả hai cùng hỗ trợ nhau trong việc rèn đọc. Việc làm này đã giúp tôi có thời gian kèm nhóm đối tượng 3, đồng thời khi các em nhóm 2 cùng đọc với nhóm 1 sẽ đẩy tốc độ nhanh hơn, cũng từ đó có động lực luyện đọc cho bằng bạn nhiều hơn.
	Nhóm đối tượng 3: Còn quên nhiều chữ cái, không viết đúng, viết kịp chính tả, đọc dịch và chậm. Tôi đã giành rất nhiều thời gian cho nhóm đối tượng này, hàng ngày tôi sẽ gọi các em lên đọc bài, kiểm tra bài thường xuyên. Đọc cho các em viết những âm, vần còn chưa nhớ. Trong giờ ra chơi, tôi thường nhờ các bạn nhóm 1 kèm cặp thêm. Trong các tiết luyện tôi chia nhỏ các bài đọc thành từng đoạn để các e có động lực phấn đấu đọc hết, không làm các em ngợp trước những văn bản dài. Thường xuyên gọi điện, phối hợp với phụ huynh để đồng hành cùng các em rèn đọc bằng nhiều hình thức.
IV. HIỆU QUẢ MANG LẠI CỦA SÁNG KIẾN
Qua việc thực hiện các biện pháp, các phương pháp nêu trên, tôi nhận thấy học sinh có tiến bộ rõ rệt về việc đọc. Kết quả cụ thể ở lớp 1D và lớp đối chứng 1C như sau:
Bảng tổng hợp kết quả
Năm học
Lớp
Sĩ số học sinh
Số học sinh đọc yếu
Giữa 
HK I
Cuối
HK I
Giữa
HK II
Cuối 
HK II
2018 - 2019
1D
29
5
3
1
0
2018 - 2019
1C
28
8
6
4
2
Các đợt khảo sát
TSHS
MỨC ĐỘ ĐỌC ĐẠT ĐƯỢC LỚP 1D
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Giữa HKI
29
6
21
18
61
5
17
Cuối HKI
29
11
38
15
52
3
10
Giữa HKII
29
14
48
14
48
1
4
Cuối HKII
29
19
66
10
34
0
0
Các đợt khảo sát
TSHS
MỨC ĐỘ ĐỌC ĐẠT ĐƯỢC LỚP 1C
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Giữa HKI
28
5
18
15
53
8
29
Cuối HKI
28
9
32
13
47
6
21
Giữa HKII
28
11
39
13
47
4
14
Cuối HKII
28
15
53
11
40
2
7
Việc đọc đúng, phát âm chuẩn, đọc đúng tốc độ, của học sinh lớp tôi có chuyển biến rõ rệt. Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên các em học sinh còn chậm của lớp 1D mà tôi chủ nhiệm đến thời điểm kết thúc năm có sự tiến bộ hơn và kết quả cũng tốt hơn lớp đối chứng. Số lượng học sinh đọc tốt tăng với số lượng đáng kể, số lượng học sinh đọc chậm và không biết đọc giảm, cuối năm học không còn học sinh không biết đọc, biết viết. Đó chính là thành công lớn của sáng kiến này.
V. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG VÀ TRIỂN KHAI
	Sáng kiến này tôi đã áp dụng cho những lớp mà tôi đã chủ nhiệm trong thời gian qua. Tôi nhận thấy rằng, nó vô cùng dễ dàng áp dụng mà không tốn kém bất cứ thứ gì. Ngoài ra, nó có thể sẽ được áp dụng cho tất cả các lớp 1 dạy Tiếng Việt CGD và mang lại hiệu quả cao cho học sinh.
VI. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN
Dạy đọc có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy Tiếng Việt 1 - CGD. Đầu tiên học sinh phải học đọc, sau đó phải đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Đọc là một công cụ để học các môn học khác. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ học tập tốt. Tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì vậy, để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả. Giáo viên cần đưa ra những biện pháp nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh từ kĩ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ năng đọc hiểu từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1- CGD.
C. KẾT LUẬN
I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM
 	Sau khi áp dụng sáng kiến tôi thấy chất lượng đọc của học sinh lớp tôi được nâng cao rõ rệt, tất cả các học sinh đều có sự tiến bộ. Để được kết quả đó giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, có lòng yêu nghề, mến trẻ, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu của bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, ham thích học, đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giới thiệu tranh ảnh , trò chơi để học sinh hào hứng học tập .
Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng, dí dỏm, tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo, tinh thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập.Khi đọc mẫu giáo viên nên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Tuy nhiên đều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì, nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hàng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau 1 năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đấu, quyết tâm giữ vững tinh thần tránh nhiệm của mình với học sinh. Hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt: đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng, nhẫn nại, chịu khó vv để tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau.
II. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Đối với giáo viên: Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu sâu thiết kế. Phải hết sức linh hoạt, sáng tạo trong dạy học. Thực sự có lòng yêu nghề mến trẻ, không ngại khó, ngại khổ mà phải đào sâu suy nghĩ, tích cực sáng tạo, tìm tòi cái mới, cái hay để dạy. Có được như vậy bài dạy sẽ thành công.
Đối với học sinh: Cần chuẩn bị đầy đủ dồ dùng học tập. Có ý thức tự giác trong việc học của mình.
Đối với phụ huynh: Cần quan tâm, giành thời gian nhiều để chăm sóc, hướng dẫn con em mình. Không nên gây áp lực, đánh đập các em khi không đọc được, mà nên động viên, khuyến khích để các em tiến bộ hơn. Phụ huynh nên chủ động trao đổi thông tin với giáo viên để nắm tình hình và có biện pháp kèm cặp, giáo dục kịp thời.
Qua một thời gian nghiên cứu, áp dụng những biện pháp trong đề tài này, tôi thấy bước đầu mang lại hiệu quả tốt đẹp. Tuy có nhiều cố gắng trong việc tìm ra các giải pháp thiết thực nhằm tăng tính thực tiễn của đề tài song khó tránh khỏi sự thiếu sót. Rất mong các bạn đồng nghiệp, chuyên môn các cấp đóng góp để kinh nghiệm về một số giải pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 1 ngày càng phát huy hiệu quả và được áp dụng rộng rãi.
Tôi xin chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ren_ki_nang_doc_cho_h.docx