Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng nói cho học sinh Lớp một

Ngày 4/11/2014, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban chấp hành Trung ương khóa XI (nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã nêu rõ: Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Phấn đấu đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học phổ thông và tương đương.

 - Đối với giáo dục nghề nghiệp, tập trung đào tạo nhân lực có kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm nghề nghiệp. Hình thành hệ thống giáo dục nghề nghiệp với nhiều phương thức và trình độ đào tạo kỹ năng nghề nghiệp theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật công nghệ của thị trường lao động trong nước và quốc tế.

 - Đối với giáo dục đại học, tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

 

doc27 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm rèn kỹ năng nói cho học sinh Lớp một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
: Mẹ chăm sóc em bé chu đáo, yêu thương.
- Mẹ rất yêu thương em bé.
...
 Khi đặt câu hỏi phải hướng cho các em vào trọng tâm của bài luyện nói. Dựa vào từng đối tượng học sinh đã nắm bắt được trong lớp của mình, giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi ý nhỏ, chi tiết với những học sinh nhận thức chậm. Và đưa ra các câu hỏi tổng quát với những học sinh nhận thức nhanh và tốt trở lên.
 Bài 71: Chủ đề : Chợ tết.
(Tổ chức luyện nói cặp đôi hoặc ba người)
	- Bức tranh trong bài vẽ cảnh gì ? ( Vẽ cảnh chợ tết.)
	- Vì sao bạn biết ? ( Có bánh, mứt, kẹo, hoa đào, có người đi mua sắm đồ tết, câu đối)
	- Trong tranh bạn nhỏ đi chợ tết với ai? (Bạn nhỏ đi chợ tết với mẹ hoặc chị gái.) 
	- Bạn đã được đi chợ tết bao giờ chưa? ( Đã được đi hoặc chưa.)
	- Bạn thấy không khí trong những ngày gần tết thế nào? ( Đông vui nhộn nhịp hơn ngày bình thường, mỗi người cảm thấy bận rộn hơn, trẻ con vui vẻ, hớn hở đón tết, cảnh vật đẹp hơn.) 
	Hoặc giáo viên nêu cả lớp suy nghĩ và phát biểu:
	- Tết đến em thích gì ? Cho học sinh tự nói, tạo không khí giao tiếp tự nhiên thoải mái. ( Được đi thăm chúc tết ông bà, được nhận tiền lì xì, được mặc quần áo mới, cùng người thân đi đón người thân công tác xa về ăn tết ở quê hương, có hoa đẹp, có bánh chưng, tranh ảnh mới và hương thơm toả ấm trong gia đình) 
	Hay cặp khác có những câu hỏi khác xoay quanh chủ đề chợ tết (Bóng bay, tranh ảnh, đĩa hát, đồ chơi, hoa tươi?)
	- Không khí trong những ngày giáp tết như thế nào? ( Xe cộ nhiều, người đi lại nườm nượp , đông đúc) Học sinh nói cặp đôi:
	 ( An toàn giao thông, cẩn thận về đồ đạc, hàng hoá của mình, không được rời người thân. )
	- Tại sao chợ tết lại họp sớm hơn và tan muộn hơn? ( Đông người, hàng hoá nhiều để phục vụ mọi người ăn tết.)
	- Bạn có thích tết không ? 
	- Để đón tết vui vẻ, an toàn bạn cần làm gì ? ( Ăn uống hợp vệ sinh, không chơi trò chơi nguy hiểm như: Đốt các loại pháo, súng diêm)
	Cho học sinh kể một số trò chơi nguy hiểm cần tránh.
	- Sử dụng các tranh, ảnh phù hợp với bài luyện nói để tăng khả năng diễn đạt.
3. Phân các chủ đề luyện nói thành nhiều nhóm để có thể lựa chọn các hình thức và phương pháp phù hợp.
	- Chẳng hạn với những chủ đề gần gũi với học sinh có thể cho học sinh đóng vai, thông qua các hình thức học tập khác như trò chơi
	- Với chủ đề: Ba má, có thể cho học sinh sắm vai để học sinh nhận thấy rõ tình cảm của mình đối với ba má và ngược lại. Hoặc có thể cho học sinh đóng vai về những việc mình đã làm cho ba má để thể hiện tình yêu thương.
	- Với những chủ đề xa lạ hơn, giáo viên có thể giới thiệu trực tiếp sau khi cho học sinh quan sát tranh. Sau đó, gợi ý để học sinh quan sát được nó được đặt ở đâu? Và dùng để làm gì ?
Ví dụ: Như chủ đề Vó bè 
	Giáo viên có thể cho học sinh quan sát trực tiếp tranh để tìm ra câu trả lời hoặc giáo viên hướng dẫn để học sinh biết đó là cái vó bè. Đối với một số em có thể hỏi tác dụng của vó bè hoặc gợi ý để học sinh đưa ra câu trả lời.
4. Sử dụng thiết bị dạy học có hiệu quả
	Giáo viên sưu tầm các tranh ảnh phục vụ cho bài luyện nói. Ngoài ra với một số bài luyện nói có thể đưa ra các mẫu vật thật nhằm giúp học sinh có hứng thú và diễn đạt được hay hơn.
Ví dụ: Với chủ đề Áo choàng,áo len, áo sơ mi
	Giáo viên có thể đưa ra các loại áo như trong bài, qua đó học sinh sẽ dễ dàng trả lời các câu hỏi ứng với mỗi loại áo hơn.
5. Các phương pháp và hình thức dạy học
5.1.Gợi ý bằng hệ thống câu hỏi qua phương pháp đàm thoại: 
	Bước đầu chỉ dừng lại ở việc: “Thầy hỏi – trò đáp”. Dựa trên lời nói của học sinh, giáo viên sẽ chỉnh sửa câu nói sao cho rõ, gọn, đủ ý, diễn đạt ý theo nội dung câu hỏi xoay quanh chủ đề.
	Ví dụ: trong chủ đề luyện nói Bà cháu
Hỏi:
Đáp: (dự kiến)
Bức tranh vẽ gì ?
Ai hay kể chuyện cho em nghe?
 Ở nhà em yêu ai nhất? vì sao? 
=>
=>
=>
Bức tranh vẽ bà và cháu.
Bà hay kể chuyện cho em nghe.
Em yêu bà nhất vì
5.2.Sử dụng tranh ảnh, đồ dùng trực quan:
	Học sinh quan sát tranh và diễn đạt lại những gì đã được quan sát khi nhìn tranh. Mỗi hình vẽ trong tranh là một tình huống thể hiện chủ đề của bài.
	Khi Hs đã quen với việc luyện nói, giáo viên sẽ nâng dần hình thức trong quá trình dạy luyện nói:
	- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở thật kỹ. Ban đầu là những câu hỏi dễ dàng cho học sinh chọn và giúp cả lớp có được những ý chính của chủ đề cần được nói. Sau đó câu hỏi được nâng dần cao hơn, khái quát hơn.
	Ví dụ: với chủ đề “Chợ tết”
	Giáo viên cho học sinh hát về ngày tết: các em sẽ dễ dàng hình dung và nhận ra ngay chủ đề cần phải luyện nói về ngày tết.
	Gv đưa ra một số câu hỏi mở để từng cá nhân có thể trả lời dễ dàng khi quan sát hình vẽ về ngày tết: 
- Tranh vẽ cảnh gì?
- Trong tranh con thấy có ai và có những gì? Họ đang làm gì?
- Con đã đi chợ tết bao giờ chưa?
	Một số câu hỏi khác khái quát hơn để các nhóm cùng thảo luận, diễn đạt ý hoàn chỉnh, thành một đoạn văn:
- Mọi người khi đi chợ tết như thế nào?
- Ba mẹ trong gia đình con thường mua những gì khi đi chợ tết?
Hoặc khi dạy chủ đề về “ Biển cả”:
- Phong cảnh biển đẹp như thế nào?
- Biển có gì? Nước biển màu gì?
- Âm thanh của biển ra sao?
- Em hãy kể về những lần đi tắm biển với gia đình?
- Tại sao em thích biển?
5.3.Tổ chức các hoạt động trò chơi, tạo hứng thú, giúp các em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia trong quá trình luyện nói.
	Chẳng hạn như các chủ đề: Nặn đồ chơi; Áo choàng, áo len, áo sơ mi; Ghế đẩu, ghế xoay, ghế tựa; Phim hoạt hình; Đọc truyện tranh Học sinh sẽ được tham gia chơi nặn hình bằng đất, tô màu, vẽ tranh, hay chọn các loại áo thích hợp với thời tiết
	Ví dụ: Với chủ đề Nặn đồ chơi giáo viên có thể tổ chức cho học sinh nặn một số đồ chơi bằng đất nặn để giúp học sinh hiểu rõ về môn nặn đồ chơi.
	- Với những bài tập Chính tả: Có thể tạo trò chơi để học sinh điền đúng các vần, âm đầu nhằm giúp học sinh nói cho chính xác. 
Ví dụ:
	=> Cách tiến hành: Giáo viên lựa chọn các loại âm, vần địa phương thường phát âm sai chuẩn trong từng bài tập đọc để học sinh luyện phát âm thật đúng và chính xác. Điều quan trọng ở đây chính là bản thân giáo viên phải là người phát âm chuẩn và chính xác.
	Đa số học sinh trong lớp 1A4 do tôi làm chủ nhiệm các em thường phát âm sai l/ n, phát âm sai x/ s.
	Do đó, trong phần yêu cầu luyện đọc từ khó ở hầu hết tất cả các bài Học vần và Tập đọc, tôi luôn quan tâm lựa chọn những từ ngữ có âm đầu l/ n và từ ngữ có chứa x/ s. Bên cạnh đó, tuỳ theo nội dung của bài học, tôi đưa ra những trò chơi giúp hoạt động vừa học vừa vui chơi cho thoải mái.
- Loại bài tập kể chuyện: (Kể chuyện do giáo viên kể lại qua các tiết học kể chuyện...)
Loại bài tập này được áp dụng ở phân môn kể chuyện. Cần chú ý hướng dẫn học sinh có tư thế, có giọng kể thích hợp, biết sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ hỗ trợ, đặc biệt nắm vững câu chuyện định kể.
Ví dụ: Phân vai dựng chuyện
Chuẩn bị:
Giáo viên lựa chọn bài tập ở tiết kể chuyện có yêu cầu phân vai dựng lại câu chuyện (Trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1); có thể dựa vào văn bản truyện kể ở sách giáo khoa, soạn thành “Màn kịch ngắn” để học sinh tập diễn xuất được dễ dàng và thuận lợi.
Ví dụ: Câu chuyện Dê con nghe lời mẹ (Tiếng Việt 1/Tập 2) có thể được dựng lại thành “kịch bản” cho “Màn kịch ngắn” như dưới đây để hướng dẫn học sinh tham gia dựng lại câu chuyện (lời dẫn trong ngoặc đơn nhằm gợi ý về thái độ, củ chỉ, hành động của nhân vật hoặc gợi ý tạo dựng bài trí khung cảnh...)
Dê con nghe lời mẹ
Nhân vật: 
 - Dê mẹ/Sói /Dê con/Dê con/Dê con
Cảnh 1:
(Dê mẹ đang chuẩn bị đi kiếm cỏ, trước khi đi Dê mẹ dặn các con trước cửa ngôi nhà)
- Dê mẹ (xách một các giỏ):
+ Mẹ đi kiếm cỏ, các con ở nhà ngoan nhé. Ai lạ gọi không được mở cửa. Lát mẹ về cho các con bú. Mẹ về sẽ hát: Các con ngoan ngoãn/Mau mở cửa ra/Mẹ đã về nhà/Cho các con bú.
- Đàn Dê con( đứng khoanh tay): + Vâng ạ.
Cảnh 2:
(Khung cảnh Sói đứng rình và rón rén đến trước cửa ngôi nhà, chuẩn bị hát. Đàn Dê con đứng trong nhà nhìn qua của sổ và thấy Sói.Giọng hát của Sói ồm ồm):
 Các con ngoan ngoãn
 Mau mở cửa ra
 Mẹ đã về nhà
 Cho các con bú.
Dê con( nói với nhau Sói đến đấy và bảo nhau không mở cửa): Sói đến đấy chúng ta không mở cửa nhé.
Cảnh 3: 
( Sói đứng trước của một lát sau đó bỏ đi vì không làm gì được)
Cảnh 4: 
Dê mẹ ( đứng trước cửa và hát):
Các con ngoan ngoãn
 Mau mở cửa ra
 Mẹ đã về nhà
 Cho các con bú.
Dê con ( mở cửa cho Dê mẹ vào và chúng thi nhau khoe với mẹ chuyện Sói đến và chúng không mắc lừa):
Dê con: Mẹ ơi, nãy Sói đến gọi cửa và giả giọng mẹ hát nhưng chúng con đã không tin và không mở cửa cho Sói vào.
Dê mẹ( ôm các con và khen): Các con của mẹ thật là ngoan ngoãn và biết nghe lời của mẹ. Mẹ khen các con.
5.4. Tổ chức luyện nói theo hình thức cá nhân, nhóm đôi, nhóm sáu, tổ, lớp 
	Học sinh sẽ tự nói cho nhau nghe cùng trao đổi những nhận biết và bày tỏ cảm xúc của mình về nội dung chủ đề.
Với chủ đề Cây cối học sinh có thể thảo luận nhóm đôi để cùng nhau hỏi đáp về các loại cây mà mình biết và tác dụng, ích lợi của các loại cây đó. Ngoài các loại cây có trong sách giáo khoa, giáo viên khuyến khích học sinh nói thêm các loại cây ở ngoài mà các em nhìn thấy.
Hỏi
Đáp
Bạn biết cây gì ?
Cây chuối có hình dạng như thế nào?
Cây chuối có tác dụng gì?
Tôi biết cây chuối.
Thân cây chuối to, có lá dài màu xanh.
Thân cây chuối để làm thức ăn cho lợn, gà quả chuối để cho người ăn.
5.5. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng: 
	- Trong tiết dạy, tôi thường chú ý đến học sinh ít nói, thụ động, đặt những câu hỏi dễ động viên các em cùng tham gia nói. Đối với những em khá giỏi tôi sẽ khuyến khích, gợi mở bằng những câu hỏi khái quát hơn để giúp các em tự tin, mạnh dạn trình bày ý kiến, cảm xúc của mình 1 cách chân thành.
	Ví dụ: Với em Khánh Linh, em Phương Ly ở lớp tôi dạy là một các em ít nói nên tôi đưa ra cho các em các câu hỏi ngắn gọn như: Trong chủ đề Cây cối, tôi hỏi các em có thể kể cho cô nghe về một loại cây mà em biết, và có thể khai thác thêm câu hỏi nếu thấy em có khả năng trả lời. Sau những câu trả lời của các em tôi sẽ động viên các em, tôi nhận thấy mỗi lần các em được khen các em cảm thấy rất vui và những câu hỏi sau các em sẽ cố gắng tìm tòi câu trả lời để được khen hơn.
	Với những em học tốt và nhận thức nhanh như em Duy Tú, Uyển Vi, Oanh tôi có thể để các em tự khám phá ra chủ đề và các em tự do nói. Tôi chỉ là người quan sát và hướng dẫn các em.
Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở, động viên khen thưởng kịp thời nhằm kích thích sự hứng thú, ham học hỏi nơi các em. Với một năm học có nhiều sự đổi mới về nhận xét, đánh giá học sinh thì việc khen và động viên học sinh có tác dụng vô cùng to lớn.
	- Trọng tâm khi dạy luyện nói cho học sinh, tôi thường chú ý rèn kỹ năng nói to, rõ tiếng; nói thành câu, thành đoạn hoàn chỉnh, hay, giàu cảm xúc. Với một ngữ điệu tự nhiên, chân thành. 
6: Tổ chức thi luyện nói và bình chọn người nói hay nhất.
	- Trong tiết dạy học vần hoặc tập đọc, tôi chú trọng phần tổ chức hướng dẫn để học sinh thi nhau nói và nhận xét về cách biểu đạt của bạn, rồi tự bình chọn người nói hay nhất trong giờ học đó, với cách làm nhẹ nhàng này nhằm giúp các em được rèn cả kỹ năng nói và kỹ năng nghe một cách tự nhiên thiết thực. 
	-Thực hiện tốt khâu giao tiếp một cách thường xuyên sẽ tạo được phong trào thi đua:”Nói lời hay, chọn ý đẹp “và góp phần hình thành nghi thức lời nói trong giao tiếp hằng ngày, như nói có thưa gửi, biết nói lời cảm ơn và nói lời xin lỗi trong cuộc sống, học tập, nhằm làm cho mọi người thân thiện hơn cũng như ứng xử có văn hoá hơn.
7. Tăng cường hội thảo, rút kinh nghiệm trong phần dạy luyện nói của giáo viên:
	Hàng tháng giao cho Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn vạch kế hoạch, chỉ đạo sinh hoạt chuyên môn có hiệu quả thiết thực như mở hội thảo, dự giờ góp ý tiết dạy, lồng ghép việc đánh giá thực hiện dạy luyện nói của giáo viên trong các tiết dạy. Bản thân trực tiếp thăm lớp dự giờ và giúp đỡ giáo viên bằng việc làm cụ thể như trực tiếp dạy mẫu theo hướng giao tiếp (mời toàn thể hội đồng tham dự ). Bởi vậy sức thuyết phục cao, một điều đáng mừng là sau tiết dạy của tôi đã có nhiều đồng chí đánh giá nhận xét tốt, kể cả học sinh rất thích học bởi tiết học thoải mái và diễn ra một cách tự nhiên, các em học sinh được trình bày ý kiến xây dựng bài dưới sự gợi mở khuyến khích của cô giáo .
V. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
I. KẾT QUẢ: 
Qua một số phương pháp luyện nói cho học sinh đã nêu ở trên, tôi đã thu được những kết quả chủ yếu trong dạy học như sau:
 Bảng thống kê khả năng nói - giao tiếp của học sinh lớp 1A4 cuối năm học cụ thể như sau:
Lớp
Sĩ số
Hoàn thành 
Chưa hoàn thành 
SL
%
SL
%
1A4
35
35
100
0
0
 	Đa số học sinh trong lớp có khả năng giao tiếp với mọi người xung quanh rất tốt như: các em nhận thức được cần phải lễ phép với người trên, phải xưng hô đúng cách, phải biết nói lời cảm ơn hay xin lỗi đúng chỗ, đúng nơi, đúng lúc.Khi giao tiếp với thầy cô giáo trong trường theo đúng nghi thức, hầu hết học sinh đều biết sử dụng lời nói biểu cảm để bày tỏ sự lễ phép của mình.
 Trong tất cả các giờ học trên lớp, học sinh đã biết trả lời các câu hỏi của giáo viên với nội dung đầy đủ ý nghĩa, biết cách trả lời câu hỏi một cách rõ ràng, trả lời cả câu... Việc giao tiếp với bạn bè trong lớp cởi mở, tự tin hơn rất nhiều.
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
Một là: Người giáo viên cần xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng nói cho học sinh .
Hai là: Quan tâm rèn kỹ năng nói ở tất cả các môn học kể cả hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Ba là: Rèn kỹ năng nói không chỉ bằng ngôn ngữ mà phải kết hợp cả cử chỉ, điệu bộ và các thiết bị dạy học .
Bốn là: Người dạy phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh .
Năm là: Khi đã xây dựng được kỹ năng giao tiếp cần chỉ đạo để giữ vững kỹ năng nói tốt trên mọi phương diện .
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
 Bác Hồ đã từng nói: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó làm cho nó phổ biến và rộng khắp" 
 Trong “Mục tiêu giáo dục bậc tiểu học” có đưa phần mục tiêu rèn luyện nhân cách lên hàng đầu, cụ thể: Rèn luyện cái Tâm, bao gồm:
	- Xây dựng ở học sinh lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu quý anh chị em.
	- Kính trọng thầy cô giáo, lễ phép với người lớn tuổi.
	- Giúp đỡ bạn bè và các em nhỏ...
	Như vậy mục tiêu giáo dục tiểu học không còn là xoá mù chữ, dạy học sinh nghe, nói, đọc, viết, biết tính toán, có kiến thức cơ bản về tự nhiên và xã hội, mà còn chú trọng rèn nhân cách con người là chính. Nhưng lòng hiếu thảo, sự kính trọng ông, bà, cha, mẹ, thầy cô và người lớn tuổi phải được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau , từ lời nói, thái độ, cử chỉ và việc làm. Điều này khẳng định vai trò to lớn của những lời nói biểu cảm của học sinh trong quá trình giao tiếp với mọi người xung quanh. 
	Vì vậy, việc rèn kỹ năng “nói” cho học sinh trong giờ Tiếng Việt là một vấn đề vô cùng quan trọng và cần thiết.
 	Môn Tiếng Việt ở tiểu học có vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh tiểu học. Nhu cầu học tập của học sinh ngày càng cao, giáo viên phải không ngừng học hỏi, nghiên cứu tài liệu giáo dục nhằm thỏa mãn nhu cầu ham học hỏi của học sinh. 
	Người giáo viên cần xác định rõ vị trí và tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng nói cho học sinh .
Quan tâm rèn kỹ năng nói ở tất cả các môn học kể cả hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Rèn kỹ năng nói không chỉ bằng ngôn ngữ mà phải kết hợp cả cử chỉ, điệu bộ và các thiết bị dạy học .
Người dạy phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh .
Khi đã xây dựng được kỹ năng giao tiếp cần chỉ đạo để giữ vững kỹ năng nói tốt trên mọi phương diện .
	Có các hình thức dạy học tạo không khí hào hứng, vui tươi, phấn khởi để học sinh tiếp thu bài học với hiệu quả cao nhất. 
 Bên cạnh đó, sự quan tâm của cha mẹ học sinh đối với việc học tập của con em mình sẽ chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp học sinh thực sự trở thành những con ngoan, trò giỏi, là những công dân văn minh lịch sự, có ích cho gia đình, nhà trường và xã hội.
II. KHUYẾN NGHỊ:
 Trước thực tế giảng dạy trong nhiều năm học qua, với tư cách là một giáo viên dạy tiểu học, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau:
 Từ khi trẻ bập bẹ biết nói, những người lớn tuổi trong gia đình cần phải luôn lưu tâm uốn nắn lời ăn tiếng nói cho con em mình. Các cụ đã dạy “Uốn cây từ thuở còn non”. Không những thế người lớn còn là tấm gương cho con trẻ noi theo.
 Khi trẻ bắt đầu đến trường, thì cùng với gia đình, nhà trường và xã hội cần giáo dục trẻ ngay từ những thói quen trong giao tiếp mạnh dạn tự tin, văn minh lịch sự, thể hiện tác phong tư cách đạo đức của con người có văn hoá. Do đó, sự phối kết hợp ăn ý nhịp nhàng giữa nhà trường và gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết.
 Bên cạnh đó, mỗi giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tài liệu giảng dạy, tăng cường hiệu quả của các giờ sinh hoạt chuyên môn để đưa ra những bài giảng sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ của giáo viên phải chuẩn mực, chính xác, trong sáng.
1. Về phía gia đình:
	- Phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc các em cả về trí tuệ lẫn thể chất. Hằng ngày, nên bớt chút thời gian kèm cặp các em học tập, trang bị cho các em đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. 
	- Động viên con em kịp thời đúng lúc khi con có sự tiến bộ trong học tập. Từ đó giúp các em thích học hơn và có ý thức phấn đấu hơn nữa.
2. Về phía nhà trường:
 Nên thường xuyên mở các buổi sinh hoạt dành cho các em học sinh khối 1, tổ chức nhiều hơn các hội thi "đọc hay viết đẹp"... Nhằm động viên và khích lệ tinh thần cho các em trong học tập.
	Với học sinh lớp Một được tham gia các hoạt động tập thể các em rất hào hứng. Do vậy những buổi sinh hoạt như vậy là rất cần thiết.
3.Với địa phương :
	- Thường xuyên quan tâm tới gia đình có hoàn cảnh khó khăn tạo điều kiện cho các em được đến trường học hành đầy đủ. 
	- Hàng tháng có các buổi sinh hoạt dành cho thiếu nhi, tổ chức các hội thi "Đọc hay, viết đẹp'' ngay ở trong thôn xóm mình. 
	- Các buổi chiều tối nên mở đài phát thanh chương trình dành cho thiếu nhi, nêu gương những học sinh có ý thức vượt khó để đạt được kết quả tốt trong học tập. 
 	Trên đây là một vài kinh nghiệm của bạn thân tôi đã đúc rút trong nhiều năm giảng dạy ở trường. Rất mong sự đóng góp ý kiến của Ban giám hiệu và quý thầy cô để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn nhằm phục vụ trong công tác giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết cho học sinh lớp Một ở trường tôi đang dạy .
Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2018 
Tôi xin cam đoan “Sáng kiến kinh nghiệm” của tôi thực hiện trong năm học : 2017 - 2018. Không sao chép của ai. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt Tập 1, 2 lớp 1 - Nhà xuất bản Giáo dục
2. Tâm lí học trẻ em lứa tuổi tiểu học.
3. Đề tài và ý kiến đồng nghiệp.
4. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục
 MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU	1
I. Lý do chọn đề tài	1
II. Mục đích nghiên cứu	3
III. Khách thể đối tượng nghiên cứu	3
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu	3
V. Phạm vi nghiên cứu	3
VI. Phương pháp nghiên cứu	3
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI	
CHƯƠNG I: Cơ sở khoa học của việc nâng cao kĩ năng nói cho học sinh lớp Một trong các giờ học Tiếng Việt 	4
I. Cơ sở lí luận	4
II. Cơ sở thực tiễn	5
CHƯƠNG II: Thực trạng của việc nâng cao kĩ năng nói cho học sinh lớp 1 trong các giờ học Tiếng Việt	7
Đặc điểm nhà trường	7
Thuận lợi	7
Khó khăn	7
II.Thực trạng của việc luyện nói cho học sinh lớp 1ở trường tôi8
Về phía giáo viên	8
Về phía học sinh	8
CHƯƠNG III: Những biện pháp đổi mới trong việc rèn kĩ năng nói trong môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 	11
CHƯƠNG IV: Kết quả và bài học kinh nghiệm 	22
 I. Kết quả	22
 II. Bài học kinh nghiệm	22
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ	23
 I. Những kết luận 	23
 II. Khuyến nghị	24
Về phía gia đình	24
Về phía nhà trường	24
Về phía địa phương	24
TÀI LIỆU THAM KHẢO	26
MỤC LỤC.	27

File đính kèm:

  • docSkkn_TV_Kynangnoi_Nguyet.doc