Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc đúng cho học sinh Lớp 1

Cơ sở tâm lý, sinh lý của việc dạy đọc

Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ về quá trình đọc, nắm bản chất của kỹ năng đọc. Đặc điểm tâm lý sinh lý của học sinh khi đọc hay cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy học.

Như trên đã nói, đọc là một hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết dựa vào các hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào phân tích đặc điểm của quá trình này.

- Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Một mặt đó là quá trình vận động của mắt, sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành nhưng dòng văn tự ghi lại lời nói âm thanh. Thứ hai đó là sự vận động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa tức là mối liên hệ giữa các con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu cho được nội dung

những gì được đọc.

- Đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt hoạt động của các cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày những yếu tố này càng gần nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn.

Nhiệm vụ cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân tích biết người mới biết đọc và người đọc thành thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện, càng chính xác, càng biểu cảm bấy nhiêu.

- Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ "đọc" được sử dụng trong nhiều nghĩa : theo nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là việc chuyển dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh), theo nghĩa rộng,

 đọc được hiểu là kỹ thuật đọc của những từ riêng lẻ mà cả câu, cả bài). ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ đọc được ghi nhận trong các tài liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ hai - đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố:

1. Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ

2. Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng chữ cái (đánh vần) hay là đọc thành từng tiếng tuỳ thuộc vào trình độ nắm kỹ thuật đọc.

3. Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài) kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện lâu dài. chia việc hình thành kỹ năng này ra làm 3 giai đoạn : phân tích tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể của hành động) và giai đoạn tự động hoá. Giai đoạn dạy học vần là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo các âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó có sự tiếp nhận từ bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo sự thông hiểu ý nghĩa của "từ" trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lớp 3 học sinh bắt đầu đọc tổng hợp. Trong những năm học cuối cấp, đọc càng ngày càng tự động hoá, nghĩa là người đọc ngày càng ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn hoá (bài khoá), nội dung của sự kiện, cấu trúc chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó. Thời gian gần đây, người ra đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản. Nghĩa là đòi hỏi giáo viên tổ chức giờ học đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng thời

hướng dẫn đọc có ý thức bài đọc. Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ xem là đứa trẻ biêt đọc khi nó đọc mà hiểu trương điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa chữ viết. Nếu trẻ không hiểu được những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và không có khả năng thành công. Do đó hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ, hứng thú cho việc đọc.

 

doc25 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 883 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc đúng cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm đầu, âm chính, âm cuối, dấu thanh. Đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi nghỉ hơi đúng chỗ, đúng ngữ điệu câu. Từ đó hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả mong muốn và gửi gắm trong bài tập đọc.
- Trong quá trình hướng dẫn học sinh rèn đọc, giáo viên cần đổi mới phương pháp giảng dạy, luôn lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn tổ chức, học sinh tự tìm hiểu, tự phát hiện và luyện đọc đạt kết quả tốt.
- Ngoài ra để phần rèn đọc đạt kết quả tốt thì cần phải có các yếu tố khác như cơ sở vật chất đầy đủ, đồ dùng học tập. Bên cạnh đó giáo viên phải luôn tích cực tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ năng lực. Nếu phối hợp các yếu tố trên sẽ giúp học sinh đọc đúng, diễn cảm tốt. Từ đó thể hiện được nội dung của bài học, thấy được cái hay, cái đẹp của cuộc sống qua từng bài học.
- Bên cạnh các yếu tố trên trong giảng dạy phân môn tập đọc giáo viên còn phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc phát triển lời nói (nguyên tắc thực hành). Chúng ta ai cũng biết trẻ em không thể lĩnh hội được lời nói nếu chúng không nắm được lời miệng. Do vậy khi giảng dạy cần phải bảo đảm nguyên tắc này. Điều này được thể hiện rõ hơn ở phần luyện đọc, ở phần này học sinh được rèn luyện về cách phát âm, cách nghĩ hơi đúng chỗ, cách đọc đúng ngữ điệu.
+ Để giờ tập đọc đạt kết quả cao thì phải bảo đảm nguyên tắc phát triển tư duy, phát huy tính tích cực, chủ đạo của học sinh. Do vậy phần luyện đọc giáo viên cần gọi mở, hướng dẫn học sinh tự phát hiện những chỗ cần ngắt giọng hạ, hạ giọng ở những câu thơ, những câu văn trong bài từ đó tìm ra cách đọc hay hơn.
Như vậy để học sinh đọc tốt môn tập đọc đặc biệt là vấn đề rèn đọc đúng cho học sinh lớp 1 chúng ta cần đảm bảo tốt các phương pháp và nguyên tắc trên. 
Chương II
THựC TRạNG DạY HọC
Qua giảng dạy và làm công tác tổ ở trường tiểu học Sơn Thủy và trao đổi với đồng nghiệp tôi đã có những nhận xét chung về thực trạng dạy học như sau:
I-/ TìNH HìNH GIảNG DạY CủA GIÁO VIÊN
1. Quan điểm của giáo viên về giờ tập đọc
Nhìn chung giáo viên tiểu học đều rất coi trọng giờ tập đọc. Giáo viên ở các lớp đầu cấp cho rằng phần luyện đọc từ, đọc câu là quan trọng hơn còn ở các lớp cuối cấp thì cho rằng phần luyện đọc và phần tìm hiểu bài quan trong như nhau. Nhưng nhìn chung 70% giáo viên khẳng định việc luyện đọc quan trọng hơn còn về thời gian phân bố trong giờ luyện đọc thì 80% số giáo viên cho rằng thời gian luyện đọc là nhiều hơn còn 20% cho rằng thời gian của 2 phần này như nhau. Được dự các tiết tập đọc chuyên đề của cụm nói chung và của trường nói riêng, tôi nhận thấy phần lớn giáo viên đều chú ý sửa lỗi phát âm cho học sinh, song do thời gian bị hạn chế nên việc sửa lỗi do chỉ được thực hiện lướt qua khi luyện đọc từ hoặc câu giáo viên thường chỉ cho học sinh luyện những từ và câu mà sách giáo khoa yêu cầu chứ chưa chọn lọc ra những từ hoặc câu mà học sinh của mình hay nhầm lẫn.
2. Những phương pháp giáo viên thường sử dụng trong phần rèn đọc
Hiện nay ở tiểu học, về vấn đề rèn đọc cho học sinh, giáo viên sử dụng phương pháp dạy học cụ thể là: phương pháp làm mẫu, phương pháp luyện đọc theo mẫu, phương pháp luyện tập củng cố, phương pháp hỏi đáp (đặt câu hỏi để học sinh tự tìm và phát hiện từ khó, cách ngắt nhịp câu dài) và phương pháp đóng vai (đối với văn kể chuyện).
* Thực trạng phần rèn đọc ở lớp 1 ở Tr­êng TiÓu học Sơn Thủy 
Qua chỉ đạo chuyên môn trong công tác tổ , trùc tiõp giảng dạy , tìm hiểu và dự giờ ở lớp 1 tôi thấy hiện nay nhìn chung giờ tập đọc cơ bản được tiến hành theo trình tự sau:
Tiết 1:
1. Kiểm tra bài cũ
Học sinh đọc lại bài của tiết trước và trả lời một số câu hỏi ứng với nội dung bài học.
2. Bài mới:
a. Giới thiệu bài:
- Giáo viên chép sẵn bài đọc lên bảng lớp
- Giáo viên đọc mẫu, học sinh theo dõi
b. Hướng dẫn học sinh luyện đọc
* Luyện đọc tiếng, từ
Giáo viên gạch chân những tiếng từ mà SKG yêu cầu ® cá nhân , học sinh đọc
* Luyện đọc câu
Giáo viên đưa ra những câu thơ, văn ngắt nhịp, ngắt giọng sẵn và đọc mẫu sau đó học sinh đọc theo cô. Khi cá nhân học sinh đọc các em khác nghe và nhận xét bạn. 
* Luyện đọc đoạn
Giáo viên nêu bài đọc chia thànhđoạn... sau đó cho học sinh đọc nối tiếp đoạn cho đến hết bài.
* Luyện đọc cả bài:
Cá nhân học sinh đọc ® các em khác nhận xét
3. Ôn vần:
- Dựa vào các câu hỏi và bài tập của SGK.
+ Tìm tiếng có chứa vần cần ôn
+ Nói câu chứa tiếng có vần cần ôn
4. Củng cố: Ghép từ thành câu
Tiết 2
5. Tìm hiểu bài và luyện nói
a. Tìm hiểu bài
- Học sinh đọc trong SGK
+ Cá nhân học sinh đọc từng đoạn và giáo viên nêu câu hỏi ứng với nội dung của từng đoạn để học sinh trả lời.
+ Giáo viên giảng giải thêm về nội dung, kết hợp giải nghĩa từ.
b. Luyện đọc (mức độ đọc hay)
- Giáo viên nêu cách đọc hay: giọng đọc, nhấn giọng, ngắt giọng
- Giáo viên đọc mẫu lần 2
- Học sinh đọc (cá nhân ® đồng thanh)
c. Luyện nói
- Học sinh nhìn vào tranh hoặc ảnh của SGK để luyện nói về những chủ đề mà bài đọc yêu cầu.
6. Củng cố – dặn dò
Dặn dò học sinh đọc lại bài nhiều lần và chuẩn bị bài sau
Sau một thời gian tiến hành tìm hiểu điều tra thực trạng, tôi rút ra một số kết luận sau:
* Giờ tập đọc có vị trí quan trọng ở tiểu học.
* Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc tập đọc và nhiệm vụ chính của dạy đọc.
* Trong giờ tập đọc giáo viên còn làm mẫu nhiều mà chưa để các em tự phát hiện ra cách đọc. 
* Trong giờ tập đọc nhất là khi có người dự giờ thì giáo viên còn ít chú ý đến học sinh yếu vì đối tượng này thường đọc chậm, làm mất thời gian, làm giảm tiến độ của tiết dạy.
3. Đối với học sinh
Qua nhiều năm dạy học, tôi nhận thấy ở tiểu học các em thường coi nhẹ môn tập đọc vì các em cho rằng môn tập đọc là môn dễ không phải suy nghĩ như môn toán mà chỉ cần đọc trôi chảy, lưu loát là được. Các em cũng chưa để ý đến việc đọc của mình như thế nào. Một số ít học sinh phát âm sai do thói quen đã có từ trước hoặc do tiếng địa phương. Khi đọc các em còn hay mắc lỗi ngắt giọng, các em còn ngắt giọng để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý). Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng phần lớn các em chỉ biết bắt chước cô một cách tự nhiên.
Chương III
Đề xuất giải pháp khắc phục 
 Từ việc nghiên cứu cơ sở thực tiễn và cơ sở lý luận của việc dạy đọc là nhận thấy nếu dạy như đại trà hiện nay thì chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy đọc ở tiểu học. Do vậy dể khắc phục những hạn chế, phát huy những ưu điểm hiện có ở thực tế. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số biện pháp hướng dẫn học sinh rèn đọc đúng để nâng cao hiệu quả của giờ tập đọc ở lớp 1 nói riêng và ở tiểu học nói chung. Đó là:
1. Đọc mẫu: 
- Bài đọc mẫu của giáo viên chính là cái đích mẫu hình thành kỹ năng đọc của giáo viên phải đảm bảo chất lượng đọc chuẩn, đọc đúng rõ ràng, trôi chảy và diễn cảm. Giáo viên yêu cầu lớp ổn định trật tự tạo cho học sinh tâm lý nghe đọc, hứng thú nghe đọc và yêu cầu học sinh đọc thầm theo. Khi đọc giáo viên đứng ở vị trí bao quát lớp, không đi lại, cầm sách mở rộng, thỉnh thoảng mắt phải dừng sách nhìn lên học sinh nhưng không để bài đọc bị gián đoạn.
- Đối với học sinh lớp 1 giai đoạn đầu (khoảng 2 ® 3 bài đầu) giáo viên chép bài đọc lên bảng rồi học sinh theo dõi cô đọc ở trên bảng, nhưng ở giai đoạn sau giáo viên nêu yêu cầu học sinh theo dõi bài ở sách giáo khoa để tạo cho các em có thói quen làm việc với sách.
2. Hướng dẫn đọc
Sách giáo khoa tập đọc lớp 1 chủ yếu có 2 dạng bài: 
- Dạng thơ, chủ yếu là thể thơ 4 – 5 tiếng
- Dạng văn xuôi
Cụ thể là trong 42 bài đọc thì có: 
- 23 bài dạng văn xuôi
- 19 bài dạng thơ
Việc hướng dẫn đọc đúng được thể hiện trong tiết 1
a. Luyện đọc từ ngữ
Đối với lớp 1 dù ở bất kỳ dạng bài nào văn xuôi hay thơ thì trước khi luyện đọc đúng toàn bài bao giờ học sinh cũng được ôn luyện âm vần. Trong phần này các em ôn luyện vần trên cơ sở luyện đọc những từ khó, hay nhầm lẫn khi đọc có ở trong bài. Để thực hiện được tốt phần này, ngoài việc cần lựa chọn 
thêm những từ ngữ khác mà học sinh trong lớp mình hay nhầm lẫn hoặc phát âm sai để cho các em luyện đọc. Trong thực tế, hàng ngày lên lớp tôi vẫn thực hiện điều này.
Thí dụ: Bài “Hoa Ngọc Lan”
Sách giáo khoa chỉ yêu cầu luyện đọc các từ sau
“ Hoa lan, lá dày, lấp ló” 
Khi dạy, dựa vào tình hình đọc của lớp ngoài những từ trên tôi đã tìm thêm một số từ ngữ khác cần luyện đọc đúng đó là các từ ngữ: “xanh thẫm, nụ hoa, cánh xoè ra duyên dáng, ngan ngát, toả khắp vườn, khắp nhà” Sở dĩ tôi đã lựa chọn thêm những từ ngữ này bởi vì thực tế ở lớp tôi dạy vần còn một số ít em đọc chưa tốt, các em hay nhầm lẫn vần, phụ âm đầu và dấu thanh. Cụ thể như:
Từ
Học sinh đọc nhầm
Xanh thẫm
Sân thấm
Nụ hoa
Nụ hao
Cánh xoè ra duyên dáng
Cánh xèo ra duyên dáng
Ngan ngát
Ngan ngác
Toả khắp vườn, khắp nhà
Toả khắc vườn, khắc nhà
Giáo viên cũng nên để cho học sinh tự nêu những từ mà các em cảm thấy khó đọc trong khi phát âm. 
Thí dụ: Bài “Chú công” 
SGK chỉ yêu cầu luyện đọc từ “nâu gạch, rẻ quạt, rực rỡ, lóng lánh” nhưng các em học sinh lớp tôi đã nêu ra được 2 từ mà các em cho là khó đọc đó là: “màu sắc, xoè tròn” vì khi đọc dễ bị lẫn “màu sắc” với “màu xắc”, “xoè tròn” với “xèo tòn”
Khi cho các em luyện đọc từ ngữ, giáo viên nên kết hợp phân tích tiếng để giúp học sinh nhớ lại những âm vần đã học. Tuy nhiên chúng ta cần tập trung gọi những học sinh đọc còn yếu, song để giúp những em này đọc được đúng thì việc gọi một số em giỏi đọc thật to, thật chính xác là một việc làm không thể thiếu bởi vì các êm yếu sẽ bắt chước các bạn để đọc và như vậy các em sẽ có ý thức tự sửa hơn. Sau đó cả lớp sẽ đồng thanh những từ ngữ này. Cần tăng cường cho các em nhận xét nhau đọc, đúng hay say, nếu sai thì ở đâu, các em có thể tự sửa lại cho bạn. Nếu học sinh không làm được việc đó, giáo viên phải kịp thời 
uốn nắn sửa sai ngay cho các em. Nhất thiết phải có khen chê kịp thời.
- Không chỉ luyện đọc đúng từ trong giờ tập đọc mà trong các tiết tăng cường Tiếng Việt tôi cũng luôn đưa ra những bài tập phân biệt phụ âm đầu và vần để giúp các em phát âm tốt hơn.
Thí dụ: Dạng bài tập điền vần hoặc điền phụ âm đầu
+ Bài tập 1: Điền l hay n
.o..ắng	 , 	oê , .í.ẽ , .áoức
+ Bài tập 2: Điền r, d, gi
 ộn.ã , ..ập .ờn , tháng..iêng
+ Bài tập 3: Điền s, x
ản uất , anh.anh , o.ánh
ung phong , .ừngững
+ Bài tập 4: Điền vần ăc, ắt hay ăp
m.. trời , m.. áo , đôi m
kh nơi , th. nến
+ Bài tập 5: Điền vần anh hay ăn
ch.. len , c đẹp , c nhà 
m. khoẻ , bức tr.
.v..v và còn nhiều bài tập khác dạng như trên. Sau khi học sinh điền xong giáo viên phải yêu cầu và kiểm tra các emđọc. Nếu các em đọc sai giáo viên phải kịp thời uốn nắn ngay. Phần luyện đọc từ nếu giáo viên làm tốt, hướng dẫn học sinh đọc kỹ sẽ giúp cho các em đọc trơn bài đọc tốt hơn.
b. Đọc đúng: dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy khi đọc thơ cần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từ, từng dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Vì vậy đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái, tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ. Học sinh tìm được trong bài có những dấu câu thì ngắt nhịp ra sao. Do vậy khi dạy những bài đọc thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn
Thí dụ: Bài “Tặng Cháu”
Vở này / ta tặng cháu yêu ta
Tỏ chút lòng yêu cháu / gọi là
Mong cháu / ra công mà học tập
Mai sau / cháu giúp nước non nhà
Học sinh sẽ được luyện đọc từng câu rồi đọc nối tiếp nhau cho đến hết bài. Giáo viên có thể cho các em dùng ký hiệu đánh dấu vào sách để khi đọc không bị quên.
Đến giai đoạn sau (khoảng từ giữa học kỳ II trở đi) tôi đã để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu thơ (vì những bài thơ của lớp 1 thường là ngắn nên công việc này cũng không chiếm quá nhiều thời gian trong tiết dạy). Nếu học sinh nói đúng giáo viên công nhân ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nói sai giáo viên sửa lại cho học sinh.
Thí dụ : Bài “Kể cho bé nghe”
Khi đọc học sinh thường ngắt mỗi dòng thơ một lần là do thói quen nhưng tôi đã sửa lại và hướng dẫn cho các em cách đọc vắt dòng: cuối dòng 1 đọc vắt luôn sang dòng 2, cuối dùng 3 đọc vắt luôn sang dòng 4. Cứ như thế cho đến hết bài.
Bên cạnh việc rèn đọc đúng trong các giờ tập đọc ở trên lớp thì trong các tiết tăng cường tiếng Việt tôi cũng thường đưa ra những câu thơ hoặc bài thơ ngắn để giúp học sinh luyện đọc và ngắt giọng, cũng có thể đó là những câu ứng dụng hay bài ứng dụng đã có ở phần học vần.
Thí dụ: 
“Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Hay
 “Tiếng dừa làm dịu nắng trưa
Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
 Trời trong đầy tiếng rì rào
Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra”
c. Đọc đúng: dạng văn xuôi
Tương tự như ở thơ, giáo viên cần chú trong rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, nghĩ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài cần hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Cụ thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính giáo viên đưa ra. Sau đó yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng, gọi học sinh nhận xét đúng sai. Đối với học sinh lớp 1 giáo viên cũng chưa nên hỏi nhiều quá về việc tại sao các em lại ngắt giọng như vậy mà nếu thấy đúng thì giáo viên công nhận ngay, còn nếu sai thì sửa cho các em và giải thích để các em thấy rõ
 hơn. Sau khi xác định ngắt giọng ở mỗi câu văn dài bao giờ giáo viên cũng phải nhấn mạnh cho các em thấy tầm quan trọng trong việc ngắt, nghỉ đúng ở các câu văn, đoạn văn. Muốn xác định cách ngắt giọng đúng thì phải dựa vào nghĩa vào các tiếng, từ, dấu câu.
Thí dụ: Bài “Trường em”
Câu dài trong bài cần hướng dẫn cách ngắt nghỉ hơi là: 
“ở trường / có cô giáo hiền như mẹ / có nhiều bè bạn thân thiết như anh em /”
Tôi đã chép câu này lên bảng và hướng dẫn cách ngắt hơi như trên (vì đây là bài đầu tiên trong chương trình tập đọc nên tôi hướng dẫn luôn cách đọc).
Thí dụ 2: Bài “Đầm sen”
Học sinh đã phát hiện ra câu dài trong bài là ngắt giọng như sau:
“Suốt mùa sen / sáng sáng lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ lá / hái hoa”
Tôi đã bổ sung thêm cách nghỉ hơi cho các em như sau:
“Suốt mùa sen , / sáng sáng / lại có những người ngồi trên thuyền nan / rẽ lá / hái hoa //”
Tôi giải thích ta ngắt ở sau từ “sáng sáng” để nhấn mạnh thêm về thời gian mà con người đi thăm đầm sen.
Đối với những bài có lời thoại, giáo viên phải hướng dẫn kỹ học sinh cách lên giọng cuối câu hỏi và xuống giọng cuối câu kể (câu trả lời)
Thí dụ 3: Bài “Vì bây giờ mẹ mới về”
Tôi đã hướng dẫn học sinh đọc từng câu thoại của mẹ và của con. Những câu hỏi của mẹ:
Con làm sao thế ? Đứt khi nào thế ? (đọc lên giọng cuối câu)
Những câu trả lời của cậu bé.
Con bị đứt tay. Lúc nãy ạ ! Vì bây giờ mẹ mới về (đọc xuống giọng ở cuối câu)
Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, giáo viên phải gọi nhiều em đọc, các học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc.Việc luyện đọc cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và học sinh nắm chắc được cách đọc đúng văn bản được học mà không phải tình trạng học vẹt.
Để tiết học nhẹ nhàng, không nhàm chán mà lại nhiều em được luyện đọc thì giáo viên phải tổ chức đọc theo nhiều hình thức khác nhau như đọc cá nhân, đọc theo nhóm, theo tổ hoặc đồng thanh. Những hình thức này còn giúp giáo viên kiểm soát được khả năng đọc của toàn thể học sinh trong lớp.
- Luyện đọc diễn cảm sẽ được thể hiện trong tiết 2, trong phạm vi đề tài này tôi chỉ đề cập đến vấn đề đọc đúng. Vì vậy mà cách hướng dẫn đọc diễn cảm sẽ không được nêu lên trong đề tài.
d. Luyện đọc củng cố và nâng cao
Để giúp học sinh đọc bài một cách chắc chắn, giáo viên cần dành thời gian để luyện đọc củng cố và nâng cao. Trong phần này giáo viên cho học sinh luyện đọc cá nhân – giáo viên cần chú ý tới các em đọc yếu để em đó được tham gia đọc – giáo viên cần động viên khích lệ kịp thời. Trong quá trình học sinh đọc giáo viên quan tâm theo dõi, uốn nắn, sửa sai cho các em. Đối với những bài đọc có lời đối thoại nên cho các em đọc theo lối phân vai. Đối với bài thơ cần cho các em đọc nhiều. Một tiết học tập đọc chỉ có 35 – 40 phút vì vậy để đảm bảo thời gian và chất lượng giờ học, học sinh phải đọc trước văn bản ở nhà. Giáo viên cần có sự chuẩn bị chu đáo, phải đưa ra các tình huống có thể xảy ra khi hướng dẫn học sinh đọc cho đúng, cho hay. Muốn vậy giáo viên phải luôn trau dồi kiến thức, luôn thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Trong giờ học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức để học sinh tự tìm ra kiến thức.
KIểM TRA LấY KếT QUả
 Kõt quả khảo sát của năm học 2009 - 2010 ở Trưêng Tióu học Sơn Thủy như sau: 
Lớp
Số học sinh đọc đúng, lưu loát (%)
Số học sinh đọc không đúng (%)
1A
89,3%
10,7%
1B
90,2%
9,8%
1C
89%
11%
 Kõt quả khảo sát cuèi năm - Năm học: 2010 - 2011: 
 Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm với giáo án trên ở các líp khu vùc trung tâm lớp 1A, 1B và 1C ở trường Tiểu học Sơn Thủy tôi tiến hành kiểm tra miệng (gọi học sinh đọc cả bài), kết quả thu được như sau:
Lớp
Số học sinh đọc đúng, lưu loát (%)
Số học sinh đọc không đúng (%)
1A
92,9%
7,1%
1B
96,6%
3,4%
1C
92,6%
7,4%
 Căn cứ vào những kết quả thu được ở trên tôi nhận thấy việc áp dụng một số biện pháp ở chương 3 vào việc hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng thực sự nâng cao hiệu quả của giờ dạy, phát huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được sự hứng thú say mê của học sinh.
Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm để dạy tốt phân môn tập đọc mà nội dung trọng tâm là truyền kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Tôi thấy rằng đây là một phương pháp và hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh vì khi thực hiện phương pháp và hình thức này học sinh hoàn toàn chủ động tự giác sáng tạo và tích cực tiếp thu tri thức mới. Đây là mục đích của quá trình dạy học hiện nay và hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phát triển sinh lý của học sinh lớp 1.
Để giờ dạy tập đọc đạt kết quả cao giáo viên cần áp dụng linh hoạt các biện pháp trong phần luyện đọc đúng. Tuỳ từng bài giáo viên chọn các biện pháp phù hợp để làm sao đạt kết quả cao nhất trong giờ tập đọc. Muốn vậy người giáo viên phải làm được những công việc sau:
Giáo viên phải có sự chuẩn bị bài trước khi lên lớp, phải dự đoán được tình huống có thể xảy ra trong bài dạy, từ đó có biện pháp thích hợp để giải quyết tình huống đó.
Giáo viên chuẩn bị đủ đồ dùng trực quan trong giờ dạy học. Giáo viên luôn coi học sinh là trung tâm của mọi hoạt động, còn giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn học sinh.
Để đạt được các yêu cầu trên đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải linh hoạt sáng tạo trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài ra một điều không thể thiếu đó là lòng nhiệt tình, sự tận tâm với nghề, dức tính chịu khó kiên trì, với đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu tài liệu phục vụ bài dạy của mỗi giáo viên.
Trên đây là những ý kiến nhỏ của bản thân tôi võa là giáo viên trùc tiõp dạy Líp 1A võa làm công tác tổ trưởng chuyên môn Khèi 1 nhằm giúp giáo viên tham khảo khi rèn đọc đúng cho học sinh. Mong thầy cô và các đồng nghiệp góp ý và bổ sung để nâng cao chất lượng giờ dạy tập đọc ở tiểu học nãi chung và tiõt Tập đọc Líp 1 ở Trưêng Tióu học Sơn Thủy nãi riêng nãi riêng .
Xin chân thành cảm ơn./.
	Sơn Thủy , Ngày 20 tháng 5 năm 2011.
	 Người viết
ý kiÕn cña Héi Đồng khoa học :
	 Vương Thị Hồng Duyên
Tài liệu Tham khảo: 
Sách TiÕng Việt Líp 1 ( Sách Giáo Viên ) - ( Tập 1,2 )
ThiÕt KÕ TV Líp 1 ( Tập 1,2 )
Sách TiÕng ViÖt Líp 1 ( Tập 1,2 ) 
ChuÈn K Thức - Kĩ năng môn T Việt của Bé GD & ĐT
Tõ ®iÓn chÝnh t¶ TV 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_dung_cho_hoc.doc