Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn Lớp 1

Bậc tiểu học là bậc học đặc biệt quan trọng - bậc học đặt nền móng cho sự hình thành nhân cách của học sinh. Trên cơ sở cung cấp những tri thức ban đầu về phát triển các năng lực nhận thức. Trong các môn học ở tiểu học, môn toán là môn học đóng vai trò chủ đạo. Nó là cơ sở của nhiều bộ môn khoa học khác ngay từ thời xưa. Toán học đã được ứng dụng rộng rãi trong cuộc sống. Hiện nay trong dạy học môn toán, ở phổ thông nói chung, tiểu học nói riêng giải toán có lời văn là một bộ phận cấu thành rất cần thiết. Tuy chưa phải là một nội dung cốt lõi nhưng nó là một bộ phận không thể thiếu được trong nội dung môn toán ở tiểu học.

Ở bậc Tiểu học, lớp 1 là lớp hết sức quan trọng. Nó là nền tảng vững chắc trang bị cho các em những kiến thức, kỹ năng cần thiết giúp các em tiếp tục học các lớp kế tiếp. Bước đầu hình thành cho các em kĩ năng tự phục vụ mọi hoạt động trong cuộc sống. Là một giáo viên dạy lớp 1, tự bản thân tôi nhận thấy môn Toán là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản về số, những phép tính trong đại lượng và khái niệm cơ bản về hình học, bên cạnh đó nó còn góp phần vào phát triển tư duy, khả năng suy luận, phát triển ngôn ngữ, trau dồi trí nhớ, kích thích cho các em trí tưởng tượng, óc khám phá, hình thành nhân cách cho các em.

Ngay từ lớp 1, các em chưa hình thành được kĩ năng tìm hiểu đề toán và cách giải toán có lời văn. Vì ở lứa tuổi học sinh lớp 1 các em rất hồn nhiên ngây thơ, ham chơi, chưa biết chữ, bởi vậy vốn kiến thức ngôn ngữ, nói, viết còn hạn chế. Chính vì thế nên đôi khi các em ghi được phép tính nhưng không nêu được câu lời giải. Một mặt các em chưa quen nề nếp học tập. chưa biết xác định đúng về nhiệm vụ và tầm quan trọng của việc học tập, chưa có hứng thú học tập cao dẫn đến chưa xác định được các dạng toán giải có liên quan đến lời văn.

 

doc19 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1573 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời cho thích hợp.
Tiếp đó bạn nhóm trưởng cho các bạn kiểm tra lại câu lời giải, phép tính giải và kết quả, khuyến khích các bạn có cách giải hay hơn, sau đó báo cáo với giáo viên về kết quả sinh hoạt nhóm, đề xuất ý kiến cần thiết. Trên cơ sở sản phẩm đó giáo viên cho hướng tự điều chỉnh hoạt động dạy học của mình nhằm giúp các em nâng cao kỹ năng giải toán hơn - tạo cho các em có niềm vui trong học toán. Ích lợi của biện pháp này là giáo viên đỡ tốn thời gian mà vẫn phát hiện những mặt hạn chế của học sinh để kịp thời uốn nắn, sữa chữa cho các em. Học sinh gắn bó với nhau hơn, mạnh dạn trong giao tiếp, hình thành thói quen và kỹ năng phân tích, kỹ năng giải toán, điều quan trọng là không để em nào đứng bên lề bài giảng, tạo cơ hội để các em tự nói lên những suy nghĩ của mình tạo tính tích cực, mạnh dạn cho các em, từ đó các em có niềm say mê, hứng thú hơn.
2.3.3. Đổi mới phương pháp dạy học:
Giúp học sinh tiếp cận kiến thức một cách chủ động, sáng tạo trong cách học tập sinh động, giải quyết được vấn đề một cách hợp lý, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Có thể cùng một bài toán nhưng có thầy dạy thì học sinh dễ hiểu, nắm được mạch bài, nhưng có thầy dạy thì học sinh hiểu rất ít, đó chính là khác nhau giữa phương pháp dạy học giữa hai người thầy. Để nâng cao hiệu quả dạy học, người thầy phải tìm tòi, lựa chọn phương pháp, biện pháp dạy học thích hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh mình.
Để chuẩn bị tốt cho phần học: Bài toán có lời văn. Học sinh đã phải trải qua 1 số giai đoạn cụ thể sau:
* Giai đoạn 1: Quan sát tranh, nêu phép tính thích hợp.( Được bắt đầu từ tiết 27: luyện tập đến tiết 61: luyện tập)
+ Ở giai đoạn đầu tiên này học sinh được thường xuyên làm quen với dạng toán quan sát tranh nêu phép tính thích hợp. Tôi hiểu đó chính là yêu cầu: tập biểu thị tình huống trong tranh bằng 1 phép tính thích hợp.
VD: Bài 5 tiết luyện tập trang 46.
1
+
2
=
3
	Bài đầu tiên rất quan trọng nên tôi cho học sinh quan sát kĩ tranh để học sinh biết được” Có mấy quả bóng? Thêm mấy quả bóng? Hỏi có tất cả máy quả bóng?”. Sau đó tôi giúp học sinh nêu thành bài toán đơn với 1 phép tính cộng: “ An có 1 quả bóng. Hà có 2 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”. Cho nhiều học sinh nêu lại bài toán theo ý hiểu của mình, không bắt buộc phải giống y nguyên bài toán mẫu của cô.
	Tôi nhấn mạnh vào từ: “có, thêm, có tất cả” để học sinh dần hiểu được: 
“thêm” có nghĩa là: “cộng” và cụm từ: “ có tất cả” để chắc chắn rằng chúng ta sẽ thực hiện viết phép tính cộng vào ô trống đó. Tôi cũng không áp đặt học sinh cứ phải nêu phép tính theo ý giáo viên mà có thể nêu:
 1 + 2 = 3 hoặc 2 + 1 = 3
1
+
2
=
3
Tôi đã hướng dẫn học sinh làm theo đúng mục tiêu của dạng bài tập này là: Giúp học sinh hình thành kĩ năng biểu thị một tình huống của bài toán bằng một phép tính tương ứng với mỗi tranh vẽ.
VD: Bài 5( b) trang 50.Viết phép tính thích hợp.
Cho học sinh xem tranh, nêu bài toán: Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim?
Học sinh có thể nêu:	
1. Có 4 con chim đang đậu, 1 con nữa bay đến. Hỏi có tất cả mấy con chim?
Học sinh viết: 4 + 1 = 5
Hoặc: Có 1 con chim đang bay và 4 con chim đậu trên cành. Hỏi có tất cả mấy con chim?
Học sinh viết phép tính: 1 + 4 = 5
Hoặc: Có 5 con chim, bay mất 1 con. hỏi còn lại mấy con?
Học sinh viết phép tính: 5 - 1 = 4
Có tất cả 5 con chim, trong đó có 4 con đậu trên cành. Hỏi có mấy con đang 
bay?
Học sinh viết phép tính: 5 - 4 =1
Có rất nhiều cách để nêu, giải bài, có nhiều kết quả đúng toán tôi thường xuyên khuyến khích học sinh làm như vậy. nhưng với bức tranh của bài 5b trang 50. Tôi sẽ hướng dẫn để học sinh có thể viết:
 1 + 4 = 5 
để phép tính phù hợp với tình huống của bài toán nêu ra. 
-Tương tự như vậy cho đến hết tiết 61: Luyện tập trang 85.
-Như vậy qua giai đoạn 1 học sinh của tôi đã hình thành tốt kĩ năng khi làm dạng bài tập như trên. Đó là: 
 - Xem tranh vÏ.
 - Nªu bµi to¸n b»ng lêi.
 - Nªu c©u tr¶ lêi.
 - §iÒn phÐp tÝnh thÝch hîp víi t×nh huèng trong tranh.
 2. Giai đoạn 2: Tuần 16: (Từ tiết 62 trang 87 đến hết tiết 83 trang 113) Từ giai đoạn này, học sinh không quan sát tranh để nêu phép tính thích hợp nữa mà chuyển sang: “Viết phép tính thích hợp” dựa vào tóm tắt bài toán.
Bài 3( b) trang 87: Có : 10 quả bóng
 Cho: 3 quả bóng
 Còn : . . . quả bóng
Tương tự như ở giai đoạn 1.Tôi tiếp tục cho học sinh đọc nhiều lần tóm tắt bài toán rồi căn cứ vào thuật ngữ: : “Có, cho, còn” để tiếp tục hướng dẫn học sinh: “ cho” là bớt đi và từ “còn” là chúng ta phải thực hiện phép tính trừ vào ô trống. 
 10 - 3 = 7
Như vậy ở giai đoạn này học sinh đã quen dần với cách nêu bài toán, câu trả lời bằng miệng. Rèn luyện thành thạo kĩ năng này sẽ rất thuận lợi khi học sinh bươc vào giai đoạn học: “ giải toán có lời văn”
3.Giai đoạn 3: Từ (tiết 84: bài toán có lời văn) trang 115 đến cuối năm học sinh chính thức học, rèn luyện giải bài toán có lời văn. 
 	 a.Nhận biết cấu tạo bài toán có lời văn.
Tiết 84: Bài toán có lời văn. Học sinh được học với đề toán chưa hoàn thiện. Tiếp tục sử dụng kĩ năng quan sát tranh, học sinh đã rất thành thạo ở giai đoạn 2 vậy nên hoàn thiện nốt đề bài toán là điều không khó đối với học sinh lớp tôi. Tiếp tục tôi giảng để học sinh nắm chắc một bài toán có lời văn ở lớp 1 gồm 2 phần:
+ Phần cho biết, phần hỏi.( Phần cho biết gồm 2 ý: Có . . . cho thêm.Có . . .và.Có. . . bay đi, . . . .)
Bài toán có lời văn còn thiếu số và câu hỏi: ( cái đã cho, cái cần tìm)
 Gồm 4 bài toán có yêu cầu khác nhau.
 VD: Bài 1 ( trang 115).Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán.
 Bài toán 1: Có bạn, có thêm bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu 
bạn ?
 Bài toán 2: Có  con , có thêm  con thỏ đang chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ?
 * Bài toán còn thiếu câu hỏi ( cái cần tìm)
Bài 3 Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
 Bài toán 3 : Có 1 gà mẹ và có 7 gà con. 
 Hỏi .?
 * Bài toán còn thiếu cả số cả câu hỏi ( cái đã cho và cái cần tìm)
Bài toán 4: Có  con chim đậu trên cành, có thêm.con chim bay đến. 
 Hỏi .?
 - Dạy dạng toán này tôi phải xác định làm thế nào giúp các em điền đủ được các dữ kiện (cái đã cho và cái cần tìm) còn thiếu của bài toán và bước đầu các em hiểu được bài toán có lời văn là phải đủ các dữ kiện; đâu là cái đã cho và đâu là cái cần tìm.
Bước 1: GV đặt câu hỏi - HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán. Giáo viên kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu trên bảng lớp.
Bước 2: Hướng dẫn các em xác định cái đã cho và cái cần tìm. (dữ kiện và yêu cầu bài toán). Dùng phấn màu gạch chân dữ kiện và từ quan trọng (tất cả) của bài toán.
 	 Sau khi hoàn thành 4 bài toán giáo viên nên cho các em đọc lại và xác định bài 1 và bài 2 thiếu cái đã cho; bài 3 thiếu cái cần tìm; bài 4 thiếu cả cái đã cho và cái cần tìm. Qua đó giúp các em hiều được đây là dạng toán có lời văn phải có đủ dữ kiện.
 b.Quy trình giải toán có lời văn.
 Gồm các bước:
 - Tìm hiểu bài toán.
 - Tóm tắt bài toán.
 - Giải bài toán.( gồm 3 phần: câu lời giải, phép tính, đáp số).
 Ví dụ: Dạy bài: Giải bài toán có lời văn
Bài 1 trang 122: An có 4 quả bóng xanh vàcó 5 quả bóng đỏ. Hỏi An có tất cả mấy quả bóng ?
Bước 1: Tìm hiểu bài: Tôi yêu cầu học sinh
Quan sát tranh minh hoạ trong SGK
Đọc bài toán.
Đặt câu hỏi tìm hiểu bài.
 + Bài toán cho biết gì? (An có 4 quả bóng xanh ) 
 + Bài toán còn cho biết gì nữa? (và có 5 quả bóng đỏ) 
 + Bài toán yêu cầu tìm gì? (An có tất cả mấy quả bóng?) 
 Tôi gạch chân dữ kiện, yêu cầu của bài toán.
Bước 2: Tóm tắt bài toán.
 Tôi hướng dẫn để học sinh hoàn thiện tóm tắt của bài toán. Lúc này học sinh chỉ cần dựa vào bài toán cho biết gì và bài toán hỏi gì là đã hoàn thiện tóm tắt.
 An có: 4 quả bóng xanh.
 có: 5 quả bóng đỏ.
 Có tất cả: . . . quả bóng?
Yêu cầu học sinh đọc lại tóm tắt.
Bước 3: Giải bài toán.
 Tôi có thể hướng dẫn các em viết câu lời giải theo 1 số cách sau: 
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi)và cuối (mấy quả bóng?) để có câu lời giải: “An có :” hoặc thêm từ là để có câu lời giải An có số quả bóng là:”
Cách 2: Đưa từ “quả bóng” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có “ Số quả bóng An có tất cả là:”
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của câu tóm tắt coi đó là “từ khoá” của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. Vídụ: Từ dòng cuối của tóm tắt “Có mấy quả bóng?”. Học sinh viết câu lời giải:Có tất cả là:”.
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?” để học sinh trả lời miệng: “ Cả hai bạn có là” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
 Tất cả An có là:
 4+ 5 = 9 (quả bóng)
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 4 + 5 = 9 (quả bóng). Giáo viên chỉ vào 9 rồi hỏi: “ 9 quả bóng này là của ai? ” ( số bóng của An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số bóng của An có tất cả là”Vậy là có rất nhiều câu lời giải khác nhau. Tiếp tục hướng dẫn học sinh viết các phép tính.
- Tôi nêu tiếp: “Muốn biết An có mấy quả bóng ta làm tính gì? (tính cộng); Mấy cộng với mấy? (4 + 5 = 9) hoặc 5 cộng 4 bằng mấy? (5 +4 = 9);
 Tiếp tục tôi gợi ý để học sinh nêu tiếp “9 này là 9 quả bóng) nên ta viết “quả bóng” vào dấu ngoặc đơn: 4 + 5 = 9 ( quả bóng). Để bài toán đầy đủ các bước giáo viên hướng dẫn các em viết đáp số.
 c. Trình bày bài giải bài toán có lời văn.
 Học sinh chưa tự mình trình bày bài toán có lời văn bao giờ nên việc trình bày bài toán có lời văn cũng là một việc làm rất khó. Giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận. Tuy nhiên việc học sinh làm sai hoặc viết câu lời giải chưa đúng cũng là điều khó tránh khỏi. Đây là 1 số trường hợp học sinh hay mắc phải.
Trường hợp 1:
Bài giải
4 + 5 = 9 quả bóng
Đáp số : 9 quả bóng.
 ( Dương Đức Hiếu. Học sinh chưa biết trình bày sao cho cân đối. Chưa biết viết câu lời giải.)
Trường hợp 2:
Bài giải
4 + 5 = 9 ( quả bóng)
 Đáp số: 9 quả bóng.
An có số quả bóng là:
( Mai Thị Hồng. Học sinh không biết đưa câu lời giải lên trên phép tính)
Trường hợp 3:
Bài giải
An còn số quả bóng là:
4 + 5 = 9 ( quả bóng)
 Đáp số: 9 quả bóng
( Nguyễn Mạnh Khang. Học sinh không biết viết câu lời giải).
Trường hợp 4: 
Bài giải
An có tất cả số quả bóng là:
4 + 5 = 9 ( quả bóng)
 Đáp số: 9 quả bóng
( Trần Văn Lâm. Học sinh hiểu và làm được bài).
 	2.3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi kết quả học tập của học sinh.
Bất kể hoạt động nào cũng cần kiểm tra đánh giá, đây là công việc cần thiết trong công tác giảng dạy của giáo viên. Các em ở lứa tuổi này còn ham chơi, nếu giáo viên không thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở thì các em sẽ lơ là trong học tập. Bởi vậy, trong quá trình dạy học tôi luôn kiểm tra để động viên khuyến khích kịp thời, tạo động lực học tập cho các em. Đồng thời rèn các em có tính siêng năng, biết phấn đấu vươn lên trong học tập, thấy được những thiếu sót của mình để sửa chữa, khắc phục.
Ví dụ như ngoài những bài tập trong chương trình còn ra thêm một vài bài toán có nhiều cách giải, yêu cầu các em tìm ra nhiều cách giải hay nhằm phát huy tính sáng tạo, tạo niềm say mê hứng thú thêm cho các em.
Chẳng hạn, có bài toán “Anh có 19 viên bi, anh cho em 5 viên bi. Hỏi anh còn lại bao nhiêu viên bi?
Hướng dẫn giải rồi yêu cầu các em tìm nhiều lời giải khác nhau.
* Hướng dẫn các em:
- Tìm hiểu kỹ đề bài: Đọc đề bài xem bài toán cho biết gì? hỏi gì?
- Lập kế hoạch giải:
+ Xác định Anh có bao nhiêu viên bi? 
+ Xác định Anh cho em mấy viên bi?
+ Xác định Bài toán hỏi gì?
- Sau khi hướng dẫn xong, yêu cầu các em giải. tôi kiểm tra kết quả.
Với bài toán trên, đối với những em khá giỏi thì tôi khuyến khích các em tìm ra nhiều lời giải khác nhau. Nhưng đối với những học sinh trung bình và yếu thì tôi động viên chứ không bắt buộc các em phải lập nhiều lời giải khác nhau.
Thông thường những em học yếu khi giải đúng được một bài toán các em rất phấn khởi, nên tôi đã động viên kịp thời cho các em giúp các em có thêm động lực và tiến bộ rất nhanh.
2.3.5. Xây dựng mối quan hệ thầy trò bền chặt:
Tạo sự gắn kết, tin tưởng của học sinh đối với giáo viên. Tạo cho học sinh lòng kính trọng, say mê học tập.
Để làm được vấn đề này tôi nhận thức rằng mình cần gương mẫu, xử sự công bằng, yêu thương, tôn trọng học sinh. Chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Sẵn sàng chia sẽ những giải đáp, thắc mắc với các em. Xử lý các tình huống nảy sinh trong quá trình dạy học một cách hợp lý. Tôi nắm chắc được mặt yếu, mặt mạnh của từng học sinh, tạo cho học sinh có điều kiện để giao lưu với bạn bè, với thầy cô. Không chỉ cho các em kết quả bài toán mà chủ yếu cho các em con đường để tìm ra kết quả - hay nói cách khác, dạy cách học, cách suy luận cho các em.
Ví dụ: Cho bài toán: Hà có 23 quả bóng bay, Hoa cho Hà 13 quả bóng bay nữa. Hỏi Hà có tất cả bao nhiêu quả bóng bay?
* Từ ví dụ trên tôi và học sinh cùng thảo luận đưa ra một cách giải chung cho dạng toán tương tự như vậy. Một khi mối quan hệ bền chặt thì niềm tin học sinh sẽ được nâng cao, ý thức tự học sẽ ngày càng được củng cố, các em sẽ chăm học, trao đổi mạnh dạn với thầy cô giáo về bài tập mà mình chưa hiểu từ đó tôi mới biết mình cần làm gì để giúp các em giải toán tốt hơn.
2.3.6. Công tác phối kết hợp giữa giáo viên và phụ huynh học sinh:
- Tôi luôn trao đổi tình hình học tập của con em đến tận từng phụ huynh, giúp họ biết được tình hình học tập của con em mình để cùng cộng đồng trách nhiệm. Giới thiệu với phụ huynh phương pháp giáo dục, cách hướng dẫn các em cách học ở nhà, tránh tình trạng bắt các em học quá tải, hoặc xỉ mắng khi các em chưa làm được bài tập gây tổn thương tinh thần cho các em, làm các em thiếu tự tin trong học tập.
- Tế nhị với phụ huynh, không dùng những lời chỉ trích con em họ.
- Thông báo kết quả tiến bộ của con em họ giúp học sinh cũng có nguồn động viên từ phía gia đình. 
- Các em được thầy cô khen, cha mẹ động viên, khuyến khích thì sẽ có niềm tin, sẽ có hứng thú hơn. Có như vậy kết quả dạy và học sẽ cao hơn.
Ngoài ra tôi còn phối hợp với các giáo viên bộ môn trong các tiết học khác nhằm phát huy toàn diện tính tích cực của học sinh trong học tập và mọi hoạt động.
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài.
3.1.1. Ý nghĩa: Qua thực hiện đề tài đưa ra các giải pháp đã làm cho tôi nắm chắc hơn phương pháp dạy học tích cực nhằm phát huy tư duy tổng hợp cho học sinh.
	Trong quá trình giảng dạy, tôi đã phát huy được tính độc lập sáng tạo, khả năng phân tích nhanh chóng, sử dụng đúng những tri thức, kỹ năng và vận dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó giúp tôi có những kinh nghiệm trong chuyên môn và công tác giảng dạy.
	Về phương pháp dạy học thực sự đổi mới cho học sinh hoạt động học tập, tôi đã tổ chức cho học sinh tự làm việc cá nhân và kiểm soát quá trình làm bài. Tích cực hoá việc học tập của học sinh.
	Gây hứng thú trong học tập, phát huy lòng say mê học tập cho các em để các em học tốt môn toán, học tốt các môn khác.
	Sau khi áp dụng các biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh thông qua giải toán có lời văn lớp 1. Tôi nhận thấy các em nắm được yêu cầu bài toán, biết dùng câu hỏi để ghi tóm tắt bài toán. Biết phân tích tổng hợp để tìm ra các bước giải bài toán, từ đó chất lượng giải toán đã được nâng lên rõ rệt.
Kết quả như sau:
Lớp
Tổng số
Học sinh
Chất lượng
HS viết đúng câu lời giải
HS viết đúng phép tính
HS viết đúng đáp số
HS giải đúng cả 3 bước
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
1
21
Đạt
19
90,5
20
95,2
20
95,2
19
90,5
Chưa đạt
2
9,5
1
4,8
`1
4,8
2
9,5
Đối chiếu chất lượng đầu năm học:
	- Kĩ năng viết đúng câu lời giải : có 19 em tiến bộ tăng 42,9%
	- Kĩ năng viết đúng phép tính: có 20 em tiến bộ tăng 38,1%
	- Kĩ năng viết đúng đáp số: có 20 em tiến bộ tăng 38,1%
	- Kĩ năng giải đúng cả ba bước: có 19 em tiến bộ tăng 42,9%
Kết quả khảo sát cho thấy các em tiến bộ rất nhiều. Các em nắm được ba yếu tố của bài toán. Biết giải các bài toán có lời văn.
	Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc dạy giải toán có lời văn lớp 1 đã được triển khai tại đơn vị chúng tôi. 
	 Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy giải toán có lời văn lớp 1, giáo viên cảm thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học nhiều hơn, qua thực hành cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích cực, hiệu quả.
Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Các em mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập cũng như giao tiếp nhất là đối với những học sinh trung bình và yếu.
Kết quả khảo sát cho thấy các em tiến bộ rất nhiều. Các em nắm được ba yếu tố của bài toán. Biết giải các bài toán có lời văn.
3.1.2. Phạm vi áp dụng của đề tài: 
Đề tài kinh nghiệm: “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn lớp 1” đã được áp dụng vào thực tế giảng dạy của lớp 1 tôi đang trực tiếp chủ nhiệm mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó, đã được tổ chuyên môn trao đổi, thảo luận, thống nhất sẽ đưa vào áp dụng trong thời gian tới. Với hiệu quả đạt được khi áp dụng các biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn lớp 1, tôi mong muốn đề tài kinh nghiệm của mình sẽ được áp dụng rộng rãi ở các trường học trong huyện nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của huyện nhà.
3.1.3. Kiến nghị, đề xuất.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ mục tiêu giáo dục “Nâng cao dân trí, đàotạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Trong trường học đội ngũ giáo viên là lực lượng 
nòng cốt để thực hiện nhiệm vụ ấy. Vì vậy, giáo viên phải có ý thức chăm lo bồi dưỡng về mọi mặt nhằm có đủ trình độ năng lực nâng cao chất lượng dạy và học trong nhà trường.
	Việc phát huy tư duy phân tích tổng hợp qua việc giải toán có lời văn lớp 1 là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Góp phần đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Trong tiết dạy, giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh tiếp thu bài nhanh, có hiệu quả, làm cho lớp học sôi nổi giờ học sinh động. Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục dạy chữ, dạy người, dạy nghề, nhằm tiến tới một bậc học tốt nhất, là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Có nhiệm vụ xây dựng tình cảm, đạo đức trí tuệ, thẩm mĩ, thể chất, hình thành cơ sở ban đầu về sự phát triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Để thực hiện tốt mục tiêu của giáo dục, một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nâng cao năng lực giải toán có lời văn ở Tiểu học được sử dụng có hiệu quả, tôi xin đề xuất một số kiến nghị như sau:
	*Đối với giáo viên: Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Toán ở Tiểu học nói riêng, giáo viên cần có ý thức nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng nhiều biện pháp, thủ thuật để nâng cao hiệu quả học tập cho học sinh. 
	Không ngừng tìm hiểu, hiến kế những giải pháp đổi mới phương pháp dạy học phát huy kiến thức, kỹ năng, năng lực, phẩm chất học sinh, tính tự quản, tự học, tự chiếm lĩnh tri thức là yêu cầu thường nhật đối với mỗi giáo viên khi lên lớp. Với đề tài này tôi mong muốn góp một phần tiếng nói nhỏ vào trong kho tàng kinh nghiêm giảng dạy kĩ năng giải toán có lời văn của bộ môn Toán lớp 1 nói riêng và đổi mới phương pháp dạy học của cấp học trong giai đoạn mới nói chung. 
*Đối với Tổ chuyên môn và nhà trường: cần có các buổi sinh hoạt chuyên 
môn có chất lượng để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nhà trường thường xuyên tổ chức các đợt hội thảo, chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên về đổi mới phương pháp dạy học để giúp phát huy hơn nữa tính tích cực của học sinh trong học tập.
	Trên đây là một vài kinh nghiệm và giải pháp nhỏ mà chúng tôi đã thử nghiệm áp dụng giảng dạy tại đơn vị để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn toán lớp 1. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bạn bè đồng nghiệp. Mong nhận được sự góp ý bổ sung và sự đánh giá của hội đồng giám khảo để đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tôi được hoàn chỉnh hơn. 	 Xin chân thành cảm ơn!

File đính kèm:

  • docMột_số_giải_pháp_phát_huy_tính_tích_cực,_chủ_động_của_học_sinh_nâng_cao_năng_lực_giải_toán_có_lời_vă.doc