Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu thể loại, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ Đường

Đặc điểm chung nhất của tư duy nghệ thuật thơ Đường là tư duy quan hệ, nói cách khác nó theo đúng biện chứng nghệ thuật. Điều này có nguồn gốc sâu xa là sự phát triển đến độ chín muồi của tư duy Trung Quốc ở thời đại hoàng kim của xã hội phong kiến (nhà Đường). Ở đó có sự hội nhập của ba dòng tư tưởng, ba kiểu tư duy tiêu biểu của phương Đông là Nho, Phật, Lão. Sự hội nhập này là một quá trình biện chứng. Nó dung hội ưu điểm của ba dòng tư tưởng: tính thực tiễn và duy lý của Nho gia, tính chất huyền diệu, vô vi của Đạo gia, tính chất từ bi và siêu thế của Phật giáo; đồng thời nó cũng chế ước lẫn nhau, không có một kiểu tư duy nào độc chiếm ưu thế (mặc dù Nho được ủng hộ bởi triều đình), khiến cho tư duy Trung Quốc thời này đã đạt được một sự quân bình. Nó hướng tới cái cao siêu nhưng không hề viển vông, nó hợp lý và thực tiễn nhưng không dung tục tầm thường; Nó tìm được sự dung hoà trong những quan hệ thống nhất, tương giao để đạt đến sự hoà diệu. Vì thế nó “bất bình” khi sự hoà diệu bị phá vỡ và ứng xử bằng cách vạch trần, tố cáo những quan hệ đối lập, bất công trong xã hội.

Đặc trưng mỹ học của thơ Đường trước hết biểu hiện ở tính hàm súc, ít lời nhiều ý, ý ở ngoài lời. Kết cấu thơ Đường luật hết sức chặt chẽ, mỗi bài thơ giống như một bài toán giải đáp một vấn đề xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Thơ Đường luật đúc kết những kinh nghiệm quá khứ nâng lên thành luật bằng trắc đối xứng. Đối xứng chính là mâu thuẫn thống nhất trong âm thanh, đối xứng càng cao, hài hòa càng lớn.

 

doc25 trang | Chia sẻ: haitina33 | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu thể loại, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ Đường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ảnh thơ trước đó. Cũng vì lẽ đó mà có người cho rằng làm một bài thơ Đường luật phải bắt đầu bằng câu cuối. Và người ta quan niệm một kêt hay thường là cái kết bỏ lửng hoặc bất ngờ.
Câu thơ kết trong bài “Phong Kiều dạ bạc” của Trương Kế là một cái kết bất ngờ.
Phiên âm
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
 	Bài thơ 4 câu. Hai câu trước chỉ 14 chữ mà lột tả hết những gì cảm nhận được nơi xóm bến, cả nỗi “sầu miên” của lữ khách. Câu 3 như một “thoái triều” để câu 4 bất ngờ xuất hiện độc tôn một tiếng chuông. Nửa đêm tiếng chuông văng vẳng vọng đến thuyền khách. Tiếng chuông thong thả buông trong đêm tĩnh mịch, tiếng chuông chùa phổ độ chúng sinh tìm đến bầu bạn với người lữ khách cô đơn. Tiếng chuông phổ độ này đã đưa toàn bộ thế giới mông lung, tăm tối, hỗn độn trong hai câu trước đó sang “bỉ ngạn” (bờ kia), chỉ còn lại sự nhẹ nhõm giống như một sự đốn ngộ. Tác giả đã lại dùng động tả tĩnh, mượn âm thanh để truyền hình ảnh. Tiếng chuông chùa như một sinh thể sống đến để khai thông bế tắc, hoàn chỉnh thế giới nghệ thuật của bài thơ, nâng bài thơ lên một tầm cao. Mở ra một trường liên tưởng mới trong lòng người đọc về sự phổ độ của đạo Phật cho những khổ não và dục vọng của con người.
TIẾP CẬN TÁC PHẨM CỤ THỂ 
Bài HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ của Hạ Tri Chương
Nguyên tác: 
回 鄉 偶 書 
少小 離 家, 老大 迴 
鄕音 無 改, 鬢 毛摧 
儿童 相見, 不 相 識 
笑問客 從 何處 来 
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch nghĩa:
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về
Giọng quê không đổi, nhưng tóc mai đã rụng
Trẻ con gặp mặt, không quen biết
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Dịch thơ:
Khi đi trẻ, lúc về già
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con nhìn lạ không chào
Hỏi rằng khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch, trong Thơ Đường, tập I, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
Hồi: trở về 
Hương: làng, quê hương
Ngẫu: tình cờ, ngẫu nhiên
Thư: ghi lại
Nhan đề bài thơ: Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê cho thấy nhà thơ không hề có ý định làm thơ khi đặt chân đến quê hương. Bài thơ ra đời từ một sự ngẫu nhiên, tình cờ. Nhưng đằng sau cái ngẫu nhiên ấy là cái tất nhiên của một tình yêu quê sâu nặng, thường trực, chỉ cần có duyên cớ là dâng trào bộc lộ.
Nghệ thuật đối
Phương thức biểu đạt chủ yếu của bài thơ là biểu cảm gián tiếp, thông qua tự sự và miêu tả. Bởi vậy, đọc từng câu từng chữ, tưởng như Hạ Tri Chương đang kể lại việc, đang tả lại cảnh một cách khách quan, vô tình. Nhưng qua một hệ thống đối cân chỉnh được sử dụng, người đọc lại khám phá được một khối tình u uẩn, tràn đầy phía sau.
Câu thơ đầu đối cân chỉnh giữa 2 vế câu cả về từ loại và ý nghĩa: 
Câu thơ
Thiếu tiểu 
 li gia 
 >< 
 lão đại 
 hồi
Ý nghĩa
Trẻ nhỏ
 đi
 già lớn
 về
Từ loại
Danh từ
Động từ
Danh từ
Động từ
 Câu thơ 7 chữ nhắc tới hai mốc trong cuộc đời nhân vật trữ tình: thiếu tiểu - lão đại (tuổi trẻ - tuổi già); tạo dựng hai sự đối lập: li – hồi (đi, xa nhà – về, trở về nhà). Thoạt nhìn thì câu từ đơn giản, lời lẽ kể tự nhiên nhưng cấu trúc đó đã ngầm ẩn một sự sắp xếp. Nó khái quát cuộc đời của cả một con người. Câu thơ giản dị như vô tâm nhưng hàm chứa cái nhìn chiêm nghiệm cả một quãng đường từ thiếu tiểu li gia đến lão đại hồi. Con người ấy tuổi trẻ tang bồng hồ thỉ trả hết nợ công danh, già mới bước chân trở về quê cũ. Vui đấy nhưng cũng ngậm ngùi biết bao!
Câu thứ hai tiếp tục tạo lập các ý đối, cân chỉnh và về hình thức và ý nghĩa thơ:
Câu thơ
Hương âm 
 vô cải 
>< 
 mấn mao 
 tồi
Ý nghĩa
Giọng quê
 không đổi
 tóc mai
 thay đổi
Từ loại
Danh từ
Động từ
Danh từ
Động từ
Mối quan hệ giữa một cái đổi - một cái không đổi, cái bất biến - cái vạn biến, linh hồn - thể xác, cái có thể kiểm soát - cái không thể kiểm soát toát lên điều cảm động: mặc cho bể dâu thế sự, mặc cho sự nghiệt ngã của thời gian làm rụng tóc mai ta vẫn là đứa con của quê hương, bao tâm tình thương mến và cả tâm hồn vẫn dành trọn cho quê. “Giäng quª kh«ng ®æi” lµ biÓu hiÖn c¶m ®éng vÒ tÊm lßng son s¾t, thñy chung víi quª hư¬ng. Qua ®ã, câu thơ thÓ hiÖn t×nh yªu quª s©u nÆng cña t¸c gi¶. Câu từ dường như ấp ủ một nỗi vui mừng nhưng cũng đầy hồi hộp, bồi hồi: tình quê vẫn vẹn nguyên, ta nhớ quê hương nhiều lắm. Liệu quê hương còn nhớ ta chăng? 
Câu thơ thứ ba không còn đối ý giữa hai vế câu mà sử dụng đối lập giữa cái có và cái không, giữa cái nhìn ở bề ngoài (kiến) và sự thức tỉnh, ngộ ra ở bên trong (thức):
Câu thơ
Nhi đồng 
 tương kiến 
 bất tương thức 
Ý nghĩa
 ><
 Nhi đồng tương kiến - nửa đầu câu thơ báo hiệu sự vui mừng, náo nức. Sau hơn 50 năm trở về, người gặp đầu tiên là lũ trẻ, vui lắm vì trẻ thơ trong suốt, hồn nhiên . Nhưng bất tương thức - nửa sau câu thơ lại đem đến sự hụt hẫng. Cụ già thì háo hức, mừng vui, vồ vập nhưng lũ trẻ thì không quen biết. Thật mừng vui đấy nhưng tủi lòng biết bao!
Ở câu thơ cuối, nghệ thuật đối không trực tiếp thể hiện trên câu chữ như ba câu thơ đầu mà lặn ngụp trong ý nghĩa, sâu xa từ mạch tâm tư, tình cảm của nhà thơ:
	Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
	Mối quan hệ đối lập được tạo dựng ở đây là sự đối lập giữa mong ước của người trở về với thực tế hiện hữu. Người về với bao hồi hộp, vồ vập nhớ thương, bao hình dung trông đợi những cảnh tình thân thiết. Nhưng va đập đầu tiên của nhà thơ sau bao háo hức là câu hỏi trong trẻo mà đầy xa lạ của lũ trẻ: Khách tòng hà xứ lai? Một chữ “khách” đã biến người về thành kẻ bơ vơ. Sau tiếng cười, hồn nhiên ấy ta thấy ẩn giấu nỗi buồn thấm thía của cụ già. Ta xa quê lâu quá, giờ trở thành khách lạ trên chính quê hương. Lấy tiếng cười của lũ trẻ diễn tả tiếng khóc nghẹn lòng của người xa xứ hồi hương.
Câu kết 
	Suốt cả ba câu mạch thơ đi nhanh lấp đầy tâm trạng buồn vui lẫn lộn, tủi tủi mừng mừng, náo nức hồi hộp của một người mà cái khao khát hồi hương ấp ủ suốt một đời người giờ được trở về quê. Đến câu cuối nhịp thơ sững lại như phanh gấp. Cái háo hức, bồi hồi tan biến chỉ còn sự buồn tủi đến nghẹn lời. Câu thơ cuối ngừng lại bỏ lửng một khoảng trống đầy ám ảnh như khoảng lưu bạch trong bức tranh thủy mặc gợi nhều suy ngẫm, liên tưởng.
Cái háo hức bồi hồi, mừng mừng tủi tủi trước đó hay cái đắng lòng ngậm ngùi sau này tựu chung lại cũng là biểu hiện của tình quê tha thiết. Vì vậy mà sách giáo khoa Ngữ văn 7, trong mục ghi nhớ, viết: Bài thơ biểu hiện một cách chân thực mà sâu sắc , hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ. 
Nhưng kết nối những điều vừa khám phá ta còn có những liên tưởng khác. Tình quê không đổi, nhưng con người thì khác rồi. Nhà thơ bắt đầu cảm nhận được quy luật cuộc đời: vạn vật luôn biến dịch trước sự vần xoay của đất trời. Quê hương mà ngày đêm ta ấp ủ niềm vui ngày trở về, quê hương mà lúc nào nơi đất khách ta cũng canh cánh nỗi nhớ giờ đây thành xa lạ. Người trở về bỗng lạc lõng ngay trên chính quê mình. Ta nghĩ đến sự đồng cảm, đồng điệu của bài thơ này với một bài thơ khác của Chế Lan Viên:
Trở lại An Nhơn tuổi lớn rồi
Bạn chơi ngày nhỏ chẳng còn ai
Nền nhà nay dựng cơ quan mới
Chẳng lẽ thăm quê lại hỏi người.
 Tại sao lại có cảnh huống chua chát đó? Có lẽ để xảy ra cảnh ngộ này là vì từ lâu lắm rồi, từ cái buổi “li gia” thi nhân đã không một lần trở về quê hương, ta xa quê lâu quá mà theo lẽ thường thì: Năng mưa thì giếng năng đầy/ Anh năng đi lại me thầy năng thương (ca dao). Phải chăng đây là lời tạ lỗi của đứa con với người mẹ quê hương?
Bài VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ của LÝ BẠCH
Nguyên tác
望庐山瀑布 
日照香炉生紫烟,
遥看瀑布挂前川。 
飞流直下三千尺,
疑是银河落九天。
Phiên âm
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh ngàn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống từ ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân rơi tự chín tầng mây.
Dịch thơ
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này.
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ
Vọng: trông từ xa
Lư Sơn: núi Lư - tên một dãy núi ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc
bộc: nước trên núi chảy xuống
bố: vải
Nhan đề bài thơ ngắn gọn trong 5 chữ nhưng gói ghém được cả cái thần lớn lao của bài thơ. Vọng cho người đọc biết vị trí quan sát của tác giả: đứng từ xa nhìn lại. Vị thế ấy không giúp nhà thơ nêu rõ được đặc điểm chi tiết nhưng lại có ưu thế hỗ trợ việc miêu tả cảnh một cách bao quát, tô đậm được vẻ hùng vĩ và hoành tráng của cảnh vật. Bộc, bố nếu đứng tách riêng không để lại ấn tượng ngữ nghĩa gì nhiều. Khi xếp cạnh nhau, chúng mang một ý tình sâu đậm, gợi mở ấn tượng đầu tiên về cảnh Lư Sơn: thác nước trên núi chảy xuống, nhìn xa như một tấm vải treo dọc, buông rủ xuống. Cảnh vật Lư Sơn từ nhan đề là tĩnh tại nhưng báo hiệu những điều bất tĩnh, bất tại ở phía sau.
Nghệ thuật đối
Nhìn trực diện, Lí Bạch không để câu từ đối nhau chan chát. Nghệ thuật đối ngầm ẩn trong mạch thơ và giữa 3 câu đầu đối với câu kết. Ở 3 câu đầu, Lí Bạch đã khéo léo tô vẽ bức tranh thác nước Lư Sơn bằng những nét họa mạnh mẽ, dứt khoát. Cảnh “lò hương” đặc trưng của ngọn núi hiện ra trước mắt người đọc: làn hơi nước phản quang ánh sáng mặt trời chuyển thành màu tím vừa rực rỡ vừa kỳ ảo. Ở câu thơ thứ hai, dòng nước tuôn trào đổ ầm ầm, dưới con mắt lặng ngắm từ xa của Lí Bạch, chợt biến thành dải lụa trắng rủ xuống, yên ắng, bất động treo lên giữa khoảng vách núi và dòng sông. Cái động của thực tế đi vào trong thơ thành cái tĩnh bằng tài biến hóa ngôn từ của bậc tiên thi Lí Bạch. Câu thơ thứ 3 đột ngột hóa tĩnh thành động. Dòng lụa thiên nhiên bỗng chốc ầm ầm bay xuống 3000 thước. Câu thơ nhắm trúng nhiều đích tả và gợi: thác nước hùng vĩ, núi cao, sườn dốc dựng đứng. Đó là cảnh tráng lệ thực của thác và núi nước Lư Sơn. Câu thơ cuối đưa người đọc vào cảnh huyền ảo của cảnh vật. Hai chữ nghi thị diễn tả rất đạt điều đó. Vẻ đẹp như sông Ngân rơi xuống trần gian góp phần hoàn chỉnh bức họa Lư Sơn.
Nhãn tự
Mỗi câu thơ của “Vọng Lư Sơn bộc bố” lại có một nhãn tự riêng: sinh, quải, phi lưu, lạc. Ngọn núi Hương Lô nổi bật bởi “khí bao trùm trên đỉnh Hương Lô mịt mù như hương khói” (lời nhận xét của nhà sư Tuệ Viễn trong Lư sơn kí) Cái mới của Lí Bạch là miêu tả Hương Lô mịt mù sương khói dưới những tia nắng mặt trời. Với động từ sinh, dường như chỉ khi ánh sáng mặt trời xuất hiện, mọi vật mới được sinh sôi nảy nở, sống động hơn bao giờ hết. Trong chuỗi biến hóa tĩnh – động, động – tĩnh ở câu thơ thứ 2 và 3, động từ quải, phi lưu, trực há đã làm tròn nhiệm vụ được giao. Quải (treo) biểu hiện vô cùng sát hợp cảm nhận nhìn từ xa về dòng thác: ở khoảng giữa, thác nước như dải lụa treo cao, mềm mại và uyển chuyển. Nếu động từ quải ở câu thơ thứ 2 giống như chiếc máy ảnh nhanh tay chụp lại khoảnh khắc tĩnh tại thần thái của thác nước thì ở câu thơ thứ 3, hai chữ phi (như bay) và trực (thẳng đứng) lại tài tình hóa tĩnh thành động. Núi thấp, sườn thoai thoải thì thác nước không thể nào “phi lưu” và “trực há” được. Sự tráng lệ của bức họa thiên nhiên được gợi lên từ các nhãn tự ấy, ta từng gặp ở những câu thơ trong “Tảo phát Bạch Đế thành”:
“Triêu từ Bạch đế thái vân gian
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san”
(Sáng từ Bạch đế giữa ngàn mây
Muôn dặm Giang Lăng trọn một ngày
Tiếng vượn đôi bờ kêu không dứt
Ngàn non thuyền nhẹ đã qua ngay)
Ở câu thơ cuối, chữ lạc (rơi xuống) được dùng rất đắc địa vì dòng Ngân Hà vốn nằm theo chiều ngang vắt qua bầu trời, còn dòng thác núi Lư lại đổ theo chiều thẳng đứng. Những nét vẽ thiên nhiên phóng túng, những câu từ “cam dư chi vị” đọng lại biết bao nhiêu ấn tượng!
Câu kết
Như đã phân tích, câu thơ kết đối với cả 3 câu thơ trên. Cảnh được so sánh có phần phóng đại nhưng đặt trong văn cảnh, người đọc vẫn cảm nhận được sự chân thật, tự nhiên. Câu cuối này quả thực là một danh cú bởi đã kết hợp được một cách tài tình cái ảo và cái chân, cái hình và cái thần: Hương Lô có mây mù bao phủ nên ở xa trông thác nước đã được hình dung như một dải lụa treo lơ lửng. Đám mây mù và dải lụa bạch ấy dễ khiến người đọc liên tưởng đến dải Ngân Hà. Mà Ngân Hà, trong truyền thuyết Trung Hoa, cũng được coi như một dòng sông thật sự. Bên cạnh đó, câu thơ đã lột tả được một cảm giác kì diệu của nhà thơ do hình ảnh thác nước gợi lên và để lại những dư vị đậm đà trong lòng người đọc. Khép bài thơ lại, vẫn âm vang những dư ba đầy ý vị của dòng sông Ngân trong Vọng Lư Sơn bộc bố.
Bài TĨNH DẠ TỨ của LÝ BẠCH
Nguyên tác
靜夜思
床前明月光, 
疑是地上霜。 
舉頭望明月, 
低頭思故鄉。
Phiên âm
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch, trong Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
Nhan đề: TĨNH DẠ TỨ
Tĩnh: im lặng, yên tĩnh
Dạ: đêm
Tứ: ý tứ, cảm nghĩ
Tên bài thơ sáng tỏ rằng 20 con chữ ấy không chủ tâm tả cảnh mà chuyển tải đi những cảm, nghĩ của nhà thơ. Đêm yên tĩnh gợi những ý tứ, xúc cảm.
Nghệ thuật đối
Ở hai câu thơ đầu, đọc mặt chữ, ngỡ tưởng như không có sự tương phản hay đối xứng nào xuất hiện. Nhưng ngẫm nghĩ từng câu từ, lại òa vỡ một sự đối lập giữa cái thật và cái ảo, giữa sự chắc chắn và sự hồ nghi. Tính từ minh (sáng) và danh từ quang được động từ hóa (ánh sáng -> sáng) khẳng định cái có thật: ánh trăng đêm nay vằng vặc soi tỏ trước giường. Khúc xạ qua lăng kính cảm nhận của Lí Bạch, cái ánh sáng giàn giụa ấy không còn là thật mà chuyển thành ảo: thượng sương (sương trên mặt đất). Trong tình trạng mơ màng (nghi: ngỡ), sự biến đổi ấy xuất hiện một cách tự nhiên và hợp lý: trăng sáng quá nên nhìn ngỡ như màu trắng của sương. Lí Bạch không phải là người đầu tiên cảm nhận được. Trước ông, nhà thơ Tiêu Cương đã từng viết: “Dạ nguyệt tự thu sương” (Trăng đêm giống như sương thu). Tuy nhiên, ở Tiêu Cương, cảm nhận đó hình thành nên phép so sánh để miêu tả, còn ở Lí Bạch, sự biến đổi từ thật thành ảo, từ chắc chắn thành mơ hồ lại thể hiện một khoảnh khắc nghĩ suy của con người.
Phép đối ở hai câu cuối thể hiện rõ ràng: 
Câu 3
Từ loại
Ý nghĩa
Ý nghĩa
Từ loại
Câu 4
Cử đầu
ĐT+DT
cất, nâng đầu lên
><
cúi đầu xuống
ĐT+DT
Đê đầu
khán
ĐT
trông xa
><
lo nghĩ
ĐT
tư
minh nguyệt
TT+DT
trăng sáng
><
quê cũ
TT+DT
cố hương
Cử đầu vừa tiếp nối mạch hành động của chủ thể: ngẩng đầu để kiểm tra lại cảm giác nghi thị (ngỡ là) ở trên có đúng không vừa mở ra mạch thơ để câu thứ 4 bung tỏa tình ý. Ngẩng đầu nhìn lên là hành động của bề ngoài, của lý trí. Còn cúi đầu xuống (đê đầu) không phải để kiểm tra sương hay là trăng một lần nữa. Khán là trông, là nhìn ở bề ngoài thì tư lại là những bộn bề, cái nhìn vào bên trong. Hai câu thơ chứa đựng nhiều đối lập trong chuỗi hành động: bề ngoài là sự logic của hành động từ ngẩng đến cúi nhưng bên trong là nghĩ suy của một lòng nhớ quê. Cái ảo diệu, chưa thật khiến con người ngước lên để chứng thực. Còn cái có thật, trĩu nặng, thường trực lại khiến chủ thể phải cúi nhìn sâu trong tâm can. Ngẩng đầu, cúi đầu – chỉ trong khoảnh khắc đã động mối tình quê, đủ thấy bình thường, tình cảm đó canh cánh, sâu nặng biết bao. “Vọng nguyệt hoài hương” quen thuộc là thế. Ấy vậy mà với Lí Bạch, vầng minh nguyệt kia, nỗi hoài hương kia vẫn chỉ là của riêng Lí Bạch mà thôi.
Nhãn tự:
Mạch thơ, cảm xúc được đặt trong một chuỗi liên hoàn các nhãn tự: sàng – nghi – cử – khán – đê – tư. Nghi, cử , khán, đê, tư đã trình bày ở trên. Ở đây, người viết chỉ tập trung vào chữ sàng. Nếu thay sàng bằng án, trác (bàn) thì ý nghĩa câu thơ sẽ đổi khác vì người đọc sẽ nghĩ là tác giả đang ngồi đọc sách. Còn sàng lại gợi cho người đọc nghĩ một cách có căn cứ rằng nhà thơ đang nằm trên giường. Nằm trên giường mà thao thức mới nhìn thấy ánh trăng xuyên qua cửa. Nếu thay sàng bằng đình (sân), hàm nghĩa của câu thơ cũng khác đi ngay. Trăng trước sân đâu phải trăng trước giường. Nhà thơ Án Thù đời Tống dường đã hội ngộ Lí Bạch ở trong tâm tưởng khi hạ bút:
Minh nguyệt bất am li hận khổ
Tà quang đáo hiểu xuyên chu hộ
(Trăng sáng chẳng am hiểu nỗi khổ hận của cảnh biệt li
Vẫn cứ chênh chếch chiếu xuyên mãi vào phòng cho đến sáng)
Đêm trăng sáng chốn tha hương dù đẹp đẽ đến đâu cũng khiến người nhìn trăng phải trằn trọc. Không phải vì nỗi trăng cực sáng mà bởi tại “vong nguyệt hoài hương”.
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Kết quả áp dụng việc đổi mới cách tiếp cận thơ Đường đối với học sinh khối 7:
Năm học 2011 – 2012, tôi dạy lớp 7D (sĩ số lớp là 40 học sinh). Sau khi dạy xong các bài thơ Đường, tôi tiến hành kiêm tra 1 tiết. Nhìn chung, việc vận dụng của học sinh từ bài dạy vào thực tiễn chưa cao, số lượng bài đạt mức điểm từ trung bình đến trung bình khá còn nhiều, thậm chí còn có cả điểm dưới trung bình.
	Kết quả cụ thể như sau:
 Điểm
SốHS
0.0 – 4.5
5.0 – 5.5
6.0 – 6.5
7.0 – 7.5
8.0 – 8.5
9.0- 10.0
 3
 7.5%
 20
 50%
 14
 35%
 3
 7.5%
 0
 0%
 0
 0%
 Khi áp dụng việc giảng dạy thơ Đường theo cách đổi mới đã nêu, sang năm học 2012 – 2013, kết quả bài kiểm tra 1 tiết với lớp 7C (sĩ số 39 học sinh) có đổi khác:
 Điểm
SốHS
0.0 – 4.5
5.0 – 5.5
6.0 – 6.5
7.0 – 7.5
8.0 – 8.5
9.0- 10.0
 1
 2.5%
 12
 30%
 18
 46%
 5
 14%
 3
 7.5%
 0
 0%
Như vậy, đÓ cã ®­îc mét giê d¹y- häc nãi chung vµ d¹y- häc vÒ t¸c phÈm th¬ §­êng cã hiÖu quả, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm:
Với giáo viên:
 + Phải thật sự yêu nghề, có vốn kiến thức nhất định về văn học sử và có vốn từ Hán Việt sâu sắc
 + Có ý thức tìm và hiểu đúng các tác phẩm thơ Đường.
 + N¾m v÷ng c¸c thÓ th¬ vµ ®Æc tr­ng thÓ lo¹i thơ Đường (đặc biệt là việc tạo dựng các mối quan hệ ngữ nghĩa mà nghệ thuật đối là một tiêu biểu)
Với học sinh:
 + Học sinh phải say mê, hứng thú với môn học.
 + Nên đọc trước tác phẩm ở nhà, tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm.
 + Tìm hiểu và trả lời những câu hỏi có trong sách giáo khoa.
PHẦN KẾT LUẬN
 Tãm l¹i, ®Ó d¹y häc mét t¸c phÈm th¬ §­êng cã hiÖu qña kh«ng ph¶i lµ dÔ. H¬n n÷a, ®Ó xãa ®i t©m lÝ “ng¹i” häc th¬ §­êng cña häc sinh còng lµ mét vÊn ®Ò khiÕn rÊt nhiÒu giáo viên quan t©m. Tõ thùc tÕ gi¶ng d¹y, t«i ®· rót ra ®­îc mét sè kinh nghiÖm, vµ qua ¸p dông ®· thu ®­îc mét sè kÕt qu¶ nhÊt ®Þnh. 
 VËy t«i m¹nh d¹n ®­a ra ®Ò tµi: “Đổi mới cách tiếp cận thơ Đường trong chương trình Ngữ văn 7 bậc THCS” ®Ó c¸c ®ång nghiÖp cïng tham kh¶o. Tuy nhiªn, bài viết này kh«ng thÓ tr¸nh khái nh÷ng thiÕu sãt. RÊt mong sù ®ãng gãp ý kiÕn cña b¹n bÌ ®ång nghiÖp còng nh­ Héi ®ång thÈm ®Þnh ®Ó ®Ò tµi ®­îc hoµn thiÖn h¬n vµ cã thÓ ¸p dông réng r·i. Xin ch©n thµnh c¶m ¬n! 
Xác nhận của Ban Giám hiệu
 Hà Nội, ngày 28/3/2013
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của riêng tôi.
 Người thực hiện
 Tô Thị Phương Dung 
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẬN LONG BIÊN
 TRƯỜNG THCS THƯỢNG THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TIÕP CËN TH¥ TRUNG §¹I
TRONG CH¦¥NG TR×NH NG÷ V¡N 7 
BËC TRUNG HäC C¥ Së Tõ GãC §é
CHó THÝCH, DÉN GI¶I
 MÔN: NGỮ VĂN
 TÁC GIẢ: TÔ THỊ PHƯƠNG DUNG
 CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN
 NĂM HỌC 2014 - 2015
MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1, NXB Giáo dục, 2011
Sách giáo viên Ngữ văn 7, tập 1, NXB Giáo dục, 2011
Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường, Nguyễn Viết Chữ, NXB Giáo dục Việt Nam, 2010
Văn học chữ Nôm, tinh hoa sáng tạo của văn học cổ điển Việt Nam thời trung đại – Bùi Duy Tân – TCVH, số 8, năm 1998
Tài liệu tham khảo văn học Việt Nam tập II – Bùi Văn Nguyên – NXB Giáo dục, 1979
Ngữ liệu văn học – Đặng Đức Siêu – NXB Giáo dục, 1997
Từ điển điển cố văn học trong nhà trường – Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện – NXB Giáo dục, 1998

File đính kèm:

  • docskkn_tiep_can_tho_duong_thcs_27220188.doc
Sáng Kiến Liên Quan