Tham luận Một số phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Ngữ văn

1. Thực trạng:

 1.1. Về phía giáo viên:

-Việc vận dụng đổi mới phương pháp vào các tiết dạy chưa linh hoạt, sinh động, hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh, chỉ chủ động nghiên cứu và linh hoạt vận dụng các phương pháp vào các tiết thao giảng, hội giảng, thi giáo viên giỏi hoặc “bị” dự giờ, còn những tiết “bình thường” thì vẫn dạy theo lối dạy truyền thụ một chiều . Vì vậy chưa phát huy năng lực độc lập suy nghĩ, tính chủ động, sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá những hiểu biết mới mẻ qua mỗi giờ học Ngữ văn

- Việc phân chia thời gian, tạo cơ hội cho học sinh ôn, luyện (rèn kỹ năng thực hành, vận dụng) thường xuyên sau một bài, một nhóm bài chưa được thực hiện liên tục, chưa hiệu quả.

-Mỗi GV thường đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau nên không có thời gian đầu tư cho bài giảng hay chuẩn bị đồ dùng dạy học.

- Dạy ở lớp VNEN nhưng một số giáo viên lại vẫn ôm đồm mọi công việc trong tiết dạy. Ngược lại, một số giáo viên lại giao toàn quyền cho Chủ tịch Hội đồng tự quản mà quên rằng em cũng là một học sinh, cũng cần ghi chép bài, cũng cần tiếp thu kiến thức như những học sinh khác.

1.2. Về phía học sinh:

- Trình độ của học sinh trong một lớp học không đồng đều nên việc tiếp thu bài cũng chưa được đồng bộ.

-Một số học sinh chưa xác định được nhu cầu học tập học còn mang tính đối phó, chưa hứng thú, chưa nỗ lực phấn đấu vươn lên thông qua việc đọc thêm sách, nghiên cứu bài trước ở nhà; trên lớp các em thiếu sự tập trung, thường ghi chép bài một cách máy móc hoặc trông chờ ỷ lại từ bạn bè.

-Một số em còn thụ động, ngại “động não”; chủ yếu ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng.Kiến thức về thực tế cuộc sống còn nghèo nàn nên khi thực hành viết văn làm bài sơ sài, qua loa.

- Một số em, do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên phải làm việc phụ giú cha mẹ, ít có thời gian dành cho học tập vì thế kết quả học tập còn thấp.

 

doc5 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 04/05/2023 | Lượt xem: 450 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận Một số phương pháp dạy học tích cực nhằm tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Ngữ văn", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THAM LUẬN:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC 
NHẰM TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG GIỜ NGỮ VĂN
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
 Ngữ văn là môn học có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.Học văn là cảm thụ và tiếp nhận cái hay, cái đẹp cả về giá trị nội dung lẫn hình thức của một tác phẩm văn chương
góp phần hình thành thế giới quan lành mạnh cho các em, giúp các em rèn luyện để trở thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn; có lòng yêu quê hương, đất nước; biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, căm ghét cái xấu, cái ác... 
Việc dạy – học Ngữ văn không chỉ đơn thuần là truyền thụ và tiếp thu những kiến thức trong sách giáo khoa mà còn giúp học sinh vận dụng được những điều đã học vào trong cuộc sống, cụ thể thành những hành động thiết thực cho nên trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm xây dựng lớp học thân thiện, hướng dẫn học sinh tiếp nhận, khai thác kiến thức một cách tích cực, hứng thú và chủ động, sáng tạo. Vì vậy việc đổi mới , sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao chất lượng dạy – học và tạo hứng thú cho học sinh trong giờ Ngữ văn là một nhiệm vụ thiết yếu. 
II. GIẢI QYẾT VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng:
	1.1. Về phía giáo viên:
-Việc vận dụng đổi mới phương pháp vào các tiết dạy chưa linh hoạt, sinh động, hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú học tập cho học sinh, chỉ chủ động nghiên cứu và linh hoạt vận dụng các phương pháp vào các tiết thao giảng, hội giảng, thi giáo viên giỏi hoặc “bị” dự giờ, còn những tiết “bình thường” thì vẫn dạy theo lối dạy truyền thụ một chiều . Vì vậy chưa phát huy năng lực độc lập suy nghĩ, tính chủ động, sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá những hiểu biết mới mẻ qua mỗi giờ học Ngữ văn 
- Việc phân chia thời gian, tạo cơ hội cho học sinh ôn, luyện (rèn kỹ năng thực hành, vận dụng) thường xuyên sau một bài, một nhóm bài chưa được thực hiện liên tục, chưa hiệu quả. 
-Mỗi GV thường đảm nhiệm nhiều công việc khác nhau nên không có thời gian đầu tư cho bài giảng hay chuẩn bị đồ dùng dạy học..
- Dạy ở lớp VNEN nhưng một số giáo viên lại vẫn ôm đồm mọi công việc trong tiết dạy. Ngược lại, một số giáo viên lại giao toàn quyền cho Chủ tịch Hội đồng tự quản mà quên rằng em cũng là một học sinh, cũng cần ghi chép bài, cũng cần tiếp thu kiến thức như những học sinh khác. 
1.2. Về phía học sinh:
- Trình độ của học sinh trong một lớp học không đồng đều nên việc tiếp thu bài cũng chưa được đồng bộ.
-Một số học sinh chưa xác định được nhu cầu học tập học còn mang tính đối phó, chưa hứng thú, chưa nỗ lực phấn đấu vươn lên thông qua việc đọc thêm sách, nghiên cứu bài trước ở nhà; trên lớp các em thiếu sự tập trung, thường ghi chép bài một cách máy móc hoặc trông chờ ỷ lại từ bạn bè...
-Một số em còn thụ động, ngại “động não”; chủ yếu ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên giảng.Kiến thức về thực tế cuộc sống còn nghèo nàn nên khi thực hành viết văn làm bài sơ sài, qua loa.   
- Một số em, do điều kiện kinh tế còn khó khăn nên phải làm việc phụ giú cha mẹ, ít có thời gian dành cho học tập vì thế kết quả học tập còn thấp.
	2. Giải pháp:
	Có thể khẳng định rằng trong dạy – học Ngữ văn, không có một phương pháp nào là hiệu quả, là tối ưu, là duy nhất bởi mỗi phương pháp dù truyền thống hay hiện đại đều có những ưu điểm, hạn chế riêng. Vì thế, với mỗi bài học, người giáo viên cần linh hoạt đổi mới, vận dụng các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm nâng cao chất lượng dạy – học. 
Qua quá trình giảng dạy thực tế trên lớp, tôi nhận thấy: để nâng cao chất lượng dạy – học Ngữ văn ở lớp VNEN, giáo viên có thể linh hoạt vận dụng một số phương pháp như sau:
	2.1. Phương pháp xử lí tình huống (tình huống có vấn đề).
Xử lí tình huống là phương pháp yêu cầu cần phải xem xét, phân tích những vấn đề, tình huống cụ thể thường gặp phải trong bài học hoặc trong cuộc sống, qua đó xác định cách giải quyết vấn đề, xử lí tình huống đó sao cho phù hợp. Học sinh biết vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các vấn đề đặt ra từ thực tiễn một cách phù hợp với khả năng trong từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời học sinh có thể mạnh dạn trình bày, bảo vệ ý kiến cá nhân, biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm của người khác. 
Phương pháp này giúp học sinh rèn luyện các kỹ năng nên có thể thực hiện ở các phần của bài học như mở đầu, chuyển tiếp hoặc kết thúc. Học sinh thường giải quyết các vấn đề hoặc câu hỏi như: Điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Bạn sẽ làm gì nếu ở trong trường hợp này? Vì sao bạn làm như vậy? Vì thế tình huống cần vừa sức với học sinh và có thể giải quyết trong điều kiện cụ thể. 
Ở lớp VNEN, các em ngồi theo nhóm nên với mỗi tình huống đưa ra, giáo viên cần phân chia nhiệm vụ cụ thể, hợp lí cho các nhóm và cần có những dự kiến về phương án mà học sinh có thể trả lời. Trong trường hợp các phương án trả lời trái ngược nhau, giáo viên có thể đặt thêm câu hỏi phụ, qua đó giúp học sinh nâng cao khả năng phân tích, đánh giá, lựa chọn các cách giải quyết phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của các em khi có tình huống tương tự xảy ra trong cuộc sống. Các phương án trả lời khác nhau, trái ngược nhau không nên phê phán đúng – sai (vì trong từng hoàn cảnh cụ thể suy nghĩ và nhìn nhận vấn đề của từng người là khác nhau) mà nên giúp học sinh nhận ra điều gì nên và không nên.
	2.2. Phương pháp kích thích tư duy (câu hỏi gợi mở): 
	Câu hỏi gợi mở nhằm mục đích: Gây hứng thú, thu hút sự chú ý, kích thích tìm tòi, gợi cách suy nghĩ, kiểm tra đánh giá.
 	Học sinh lớp VNEN đã được rèn kĩ năng làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm nên các em thường rất chủ động, linh hoạt trong suy nghĩ. Vì thế, giáo viên chỉ nên gợi mở ở những câu hỏi khó, tránh trường hợp câu nào cũng gợi mở, học sinh sẽ ỷ lại, “lười” suy nghĩ.
	2.3. Phương pháp thảo luận nhóm.
 	Ở lớp theo mô hình trường học mới, các em đã được sắp xếp theo nhóm nên khi giao nhiệm vụ cho các nhóm, giáo viên cần hết sức lưu ý đến sự phù hợp, vừa sức (Các nhóm được giao cùng nhiệm vụ hoặc các nhiệm vụ khác nhau) sao cho mỗi thành viên trong nhóm đều phải làm việc tích cực, không ỷ lại vào các bạn hiểu biết hơn, năng động hơn. Các thành viên trong nhóm phải giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề trong không khí thi đua với nhóm khác, kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả hoạt động chung của cả lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện, hoặc có thể phân công mỗi nhóm viên để trình bày một phần nếu nhiệm vụ học tập là khá phức tạp. 
	Và đối với phương pháp này, giáo viên sẽ đóng vai trò là người định hướng, hỗ trợ khi các nhóm gặp khó khăn. Nếu ý kiến thảo luận chưa đúng, chưa thống nhất, giáo viên phải là người chốt kiến thức đúng. 
	2.4. Phương pháp tổ chức trò chơi.
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho HS tìm hiểu, khắc sâu một nội dung trong bài học thông qua một trò chơi cụ thể liên quan đến kiến thức của bài. Phương pháp này sẽ khiến cho lớp học sinh động, tạo được sự hứng thú cho học sinh đem lại hiệu quả cao cho mỗi tiết dạy thông qua hình thức học mà chơi, chơi mà học.
Các trò chơi có thể là ô chữ, ai nhanh hơn, chơi theo hình thức “rung chuông vàng”... Phương pháp này sẽ tạo sự nhanh nhẹn, sáng tạo, tích cực của học sinh giúp các em giảm bớt căng thẳng khi tiếp nhận tri thức, đồng thời tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh, sự giao lưu học hỏi và giúp các em mạnh dạn, hòa đồng hơn trong tập thể lớp.
Ở phương pháp này, giáo viên có thể trực tiếp điều khiển hoặc linh hoạt phân chia nhiệm vụ cho các thành viên trong lớp (không nhất thiết là Chủ tịch Hội đồng tự quản).
2.5. Phương pháp thuyết trình.
Trước đây, khi nghe nói đến thuyết trình , người ta thường nghĩ đến một giáo viên “thao thao bất tuyệt” trên bục giảng, tuy nhiên, ở lớp VNEN, phương pháp thuyết trình không phải được giáo viên sử dụng chủ yếu mà là dành cho học sinh.
- Học sinh được giao nhiệm vụ điều khiển các hoạt động cần đến thuyết trình.
- Học sinh đại diện trình bày kết quả thảo luận của nhóm cần đến thuyết trình.
Vì vậy, giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng thuyết trình; hướng dẫn học sinh cách thức thuyết trình để học sinh biết cần thuyết trình những gì và thuyết trình như thế nào để người nghe hiểu được nội dung, vấn đề.
2.6. Phương pháp đóng vai ( hoặc sân khấu hóa tác phẩm).
	Giáo viên tổ chức cho học sinh các nhóm thực hành “làm thử” một số tình huống có trong văn bản, hoặc một số cách ứng xử nào đó mà em sẽ làm nếu giả định trường hợp gặp phải là mình hoặc tái hiện một câu chuyện (ví dụ:các thể loại truyện dân gian hoặc các văn bản tự sự)
	Phương pháp này các em học sinh lớp 6, 7 thường rất hào hứng, nhiệt tình tham gia nên giáo viên cần hướng dẫn các em phân chia vai, nhiệm vụ cho phù hợp, tránh để các em bị hụt hẫng vì cảm thấy mình là người bị “bỏ quên”.
	Tuy nhiên, đối với học sinh lớp 8, 9 lớn hơn nên lại dễ gây ra tâm lí e ngại. Vì thế, giáo viên cũng cần khéo léo, tế nhị, có sự động viên, khích lệ kịp thời.
	Sau khi các nhóm hoàn thành nhiệm vụ diễn xuất của mình, giáo viên cần tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá kết quả của từng nhóm; rút ra bài học; định hướng hành động cho bản thân .
2.7.Sử dụng đồ dùng dạy học và Ứng dụng công nghệ thông tin  
 Tranh ảnh, sơ đồ, bảng phụ là những phương tiện phục vụ cho giờ dạy đạt hiệu quả hơn.Vì nó trực quan , sinh động giúp GV, học sinh mở rộng hoặc khắc sâu kiến thức.Ngoài ra tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, phát huy khả năng hỗ trợ của phương tiện, công nghệ vào các bài giảng: lồng ghép những đoạn phim, những tranh ảnh, những khúc ngâm, bài thơ được phổ nhạc vào quá trình giảng dạy, không những tạo không khí hứng thú học tập, mà đó là một kênh thông tin hữu hình, trực quan để học sinh nhận biết, hiểu bài sâu sắc.
3. Kết quả đạt được:
Trong quá trình giảng dạy ở lớp VNEN, bản thân tôi cũng như các thành viên trong Tổ đã mạnh dạn đổi mới phương pháp và nhận thấy:
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong việc học: Có sự chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp; trong giờ học luôn tích cực tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng bài; các nhiệm vụ đặt ra trong giờ học được các em thực hiện khá tốt.
- Các em mạnh dạn trình bày, trao đổi những vấn đề liên quan đến bài học hay những điều còn băn khoăn, thắc mắc (cả trong và ngoài giờ học).
- Kết quả học tập của các em đạt được (qua thống kê kết quả trong các năm học qua:từ năm học 2015 – 2016 đến 2018-2019. 
Tất cả các lớp VNEN 100% hoàn thành và hoàn thành tốt môn học.
III. KẾT LUẬN:
    	Đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn nói chung, phương pháp dạy học Ngữ văn ở lớp VNEN nói riêng là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi mỗi giáo viên cần nhận thức đúng và thực hiện tốt để nâng cao chất lượng dạy – học, đáp ứng được mục tiêu đào tạo bộ môn, giúp học sinh yêu thích học bộ môn hơn.Tuy nhiên việc thực hiện nó như thế nào, hiệu quả ra sao còn tùy thuộc rất nhiều vào nội dung từng bài, từng tiết và nghệ thuật vận dụng của thầy cô giáo, cũng như đối tượng học sinh.Hi vọng chuyên đề là tài liệu hữu ích để quý đồng nghiệp tham khảo góp phần nâng cao chất lượng dạy-học bộ môn và hơn nữa là góp phần “đánh thức” tình yêu của người học đối với môn Ngữ để giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
Trên đây là một số kinh nghiệm của cá nhân tôi và các thành viên trong Tổ Ngữ văn – GDCD-Sử-Địa, rất mong quý thầy cô giáo đóng góp ý kiến, chia sẻ thêm để chúng ta có thêm bài học, thêm kinh nghiệm góp phần nâng cao chất lượng dạy – học trong tình hình mới.
 Xin chân thành cảm ơn!
 Long Điền Đông, ngày 22 tháng 12 năm 2019
 Tổ trưởng	 Người thực hiện:
	Phạm Hồng Thắm	 Trần Thị Ánh

File đính kèm:

  • doctham_luan_mot_so_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_nham_tao_hung.doc
Sáng Kiến Liên Quan