Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS qua phân môn Vẽ tranh

Cuộc sống của con người ngày càng phát triển về mọi mặt và hướng tới Chân – Thiện – Mỹ. Mỹ thuật ngày càng đi vào cuộc sống của con người, trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động, mọi công việc. Phát triển "Cái đẹp trong cuộc sống là khởi nguồn của cái đẹp trong nghệ thuật"

Giáo dục con người phát triển toàn diện là phát triển cả Đức, trí, thể, mỹ và lao động, đó là mục tiêu mà Đảng, nhà nước đặt ra cho ngành giáo dục. Như vậy, giáo dục thẩm mỹ là một trong các nội dung giáo dục nhằm phát triển toàn diên nhân cách học sinh

 Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, những năm vừa qua Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là về chất lượng giảng dạy các môn học. Trong đó môn Mĩ thuật là một trong những môn học ngày càng được chú trọng bởi tính đặc thù và thiết yếu của nó.

Nghệ thuật trang bị cho những người xem, người nghe, người học một vốn sống phong phú gấp nhiều lần so với những điều họ chiêm ngưỡng được, do vậy nghệ thuật giúp làm phong phú cuộc sống cá nhân và cuộc sống xã hội. Những bài học triết lí thông qua các tác phẩm nghệ thuật khiến con người nâng cao sự hiểu biết và rút ra bài học cho bản thân và hướng tới Chân - Thiện - Mĩ.

Trong thực tế dạy và học Mĩ thuật ở THCS không nhằm đào tạo các em học sinh trở thành họa sĩ hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho các em, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp, biết vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh là việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy đánh giá một cách tích cực đúng đắn, gây hứng thú cho cả người học và người dạy, tìm ra được phương pháp, cách thức giảng dạy phù hợp đối tượng. Tuy nhiên dạy như thế nào? dạy thật tốt hay bình thường còn phụ thuộc ý thức học tập của mỗi chúng ta. Và quan trọng là người giáo viên phải luôn luôn biết đặt vị trí của mình vào thực trạng giáo dục của địa phương để có nhiều giải pháp phù hợp nhất để đạt được kết quả như mong muốn.

 

doc22 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 4881 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS qua phân môn Vẽ tranh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 học sinh THCS
2.2.1.Đặc điểm tâm lý
Trong quá trình giảng dạy, việc nắm bắt được tâm lý học sinh là hết sức quan trọng. Lứa tuổi học sinh THCS tuổi từ 11-15 đang theo học từ lớp 6-9, là lứa tuổi bướng bỉnh khó bảo với sự mạnh mẽ về tâm sinh lý, biểu hiện tình cảm rõ ràng, sự yêu, sự ghét đồng thời có biểu hiện của sự e thẹn ngại ngùng, ảnh hưởng đến kết quả bài vẽ của các em. Vì thế, trong quá trình làm bài các em thường che bài vẽ của mình không để thây cô giáo thấy, đồng thời cảm giác mình đã lớn nên các em muốn độc lập trong bài vẽ cua mình muốn thể hiện bản lĩnh của bản thân rằng mình sẽ làm được, sẽ vẽ được nhưng khi bắt tay vào bài vẽ thì đa số các em không thể hiện được ý tưởng của mình, vì sao? Sự phát triển thể chất tâm lý, trí tuệ mạnh mẽ nhưng không đồng đều. Đa phần các em còn bỡ ngỡ vụng về trong khi vẽ, điều chỉnh hình vẽ nét bút không theo suy nghĩ cua bản thân. 
Ở học sinh THCS đa số các em thích vẽ theo suy nghĩ, ý thích của mình hơn là vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nghĩ gì và vẽ nấy, đặt bút vào là vẽ không theo trình tự khuôn khổ các bước vẽ. Một số ví dụ sau:
Chính vì vậy người giáo viên cần hiểu và hướng dẫn các em dần dần, để các em nắm bắt và thấy được tác dụng của việc vẽ tranh đúng đem lại cho bài vẽ của mình có một kết quả tốt.
2.2.2. Khả năng cảm nhận trong phân môn vẽ tranh của học sinh THCS
Ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS nhìn chung rất đơn giản nhưng cũng rất sáng tạo, phong phú. Các em thường vẽ tranh theo nhiều nội dung đề tài khác nhau, một số em cũng tìm cho mình được nội dung và cách thể hiện rất dí dỏm, có nhiều bố cục lạ, đẹp mắt nhưng cũng không ít bố cục thể hiện sự lỏng lẻo vụng về, lúng túng của các em trong khi xây dựng bố cục. Về hình tượng thì đa phần các em chưa có suy nghĩ tìm tòi về dáng, hình, động tác và nhất là những đặc điểm điển hình tong từng loại đề tài hay nội dung mà các em chọn. Bởi hình tượng các em chọn để vẽ còn chung chung, thiếu cái động, tĩnh, thiếu chiều sâu bức tranh. Các em vẽ tranh đơn giản chỉ là kể, tả lại những hoạt động, động tác của nhân vật, nguời hay vật hay một quang cảnh nào đó. Đa số học sinh thể hiện màu sắc trong tranh thường rực rỡ đôi khi trở nên đối lập về màu sắc khiến cho tranh trở nên khô cứng ngay cả tranh về đề tài thơ mộng. Những đề tài được các em ưa thích nhất là thường là tranh phong cảnh, bởi vì đó là những thứ gần gũi được các em quan sát thu nhận một cách thường xuyên thể hiện trí tưởng tượng ghi nhớ của các em hết sức phong phú đa dạng. nghệ thuật ngôn ngữ tạo hình cũng từ đó mà được hình thành. Bộc lộ với những đặc trưng riêng của từng lứa tuổi.
Chất liệu mà các em thể hiện chủ yếu là bút dạ, màu sáp, vì thế mà tranh các em thường là nhưng gam màu rất sống động, tươi vui. Vì vậy đa phần những bài vẽ của các em có sự chênh lệch về gam màu đậm nhạt rất lớn. Nhưng nhìn chung các em đã thể hiện được đâu là hình ảnh chính, là phụ để tô màu.
2.3. Hứng thú học tập trong phân môn vẽ tranh ở học sinh THCS
Lợi thế của môn học Mĩ thuật là tạo cho các em tâm lí thoải mái, tự do trong cách tìm tòi, sáng tạo và nhất là đối với phân môn vẽ tranh được đông đảo học sinh ưa thích bởi tính tự do ít gò bó, nói như vậy nhưng dù ít dù nhiều thì vẽ tranh cũng phải tiến hành theo các bước, và cũng có những cách thức riêng mà tuỳ vào đặc điểm ngôn ngữ tạo hình của từng lứa tuổi giai đoạn mà có cách thể hiện và sử dụng khác nhau, tuy nhiên ở đây chúng ta tìm hiểu lứa tuổi học sinh THCS trong phạm vi phân môn vẽ tranh và với những nội dung cụ thể sau :
23.1.Về bố cục
Bài vẽ tranh đề tài của các em học sinh trường THCS chủ yếu tập trung ở khối 6,7,8 . Điểm chung nổi bật của các em khi tiến hành bài vẽ là không tuân theo trình tự các bước vẽ, nhiều em vẽ thẳng hình vào giấy nghỉ gì là thể hiện ra mà không chú ý đến bố cục sắp xếp chính phụ, dẫn đến bố cục bị to bị lệch, có em thì bố cục lỏng lẻo, có em lại chật chội vv... dẫn đến kết quả bài vẽ không cao. Như một số bài sau:
Vậy để có một bố cục tốt các em phải lam theo các bước như sau:
 	Ý thức về bố cục của các em chưa được rõ ràng. Bố cục như thế nào là đẹp ? mảng chính là gì? mảng phụ là gì? Và khi đi vào thực hành thì không tuân thủ theo các bước, thích gì vẽ nấy nên không có sự đồng nhất giữa lí thuyết và thực hành.
2.3.2.Về đường nét
Đa số em đã biết sử dụng kết hợp các nét trong bài vẽ (nét cong mềm mại để vẽ người, nét thảng để vẽ cây cối nhà cửa). Tuy nhiên để bắt đầu bài vẽ các em thường đi ngay vào những nét vẽ chính không có sự phác nét trước, nét vẽ thiếu sự dứt khoát linh hoạt và còn lưỡng lự, khô khan nét vẽ cứng. Đặc biệt khi vẽ khuôn mặt hay chân tay của người thì đa phần các em chỉ vẽ mô phỏng tượng trưng là chủ yếu. nhưng đó cũng là cái riêng ở lứa tuổi các em, làm cho bức tranh của các em có vẽ gì đó ngộ nghĩnh, dí dỏm hồn nhiên.
Vì vậy mà người giáo viên phải biết được đặc trưng đường nét ở lứa tuổi của các em đễ có cách nhận xét đánh giá cho phù hợp, tuy nhiên cũng cần có phương pháp nắm bắt và uốn nắn dần tỉ mĩ cho các em, đễ các em vẽ bài linh hoạt hơn nưng cao kỹ năng vẽ hình cho các em.
2.3.3.Về hình khối
Do cách cảm nhận về hình khối không rõ ràng nên đa phần các em học sinh THCS khi vẽ tranh đề tài đều không chú ý đến hình khối, vẽ chỉ là một mảng bẹt, thiếu chiều sâu cho không gian. Thực tế các em khi vẽ người hay cảch vật chỉ chú ý diễn tả chiều rộng và cao của nhân vật, chiều sâu do định luật xa gần tạo nên các em không nắm bắt được.. hoặc người ở gần thì to người ở xa thì nhỏ,còn lại đều ngang nhau cùng nằm trên một mặt phẳng, nó mang tình chất trang trí là chủ yếu kết hợp với những đường viền đậm. Như một số bài dưới đây:
Một điều đáng lưu ý nữa là khi các em vẽ tranh đề tài thì từ bước 1 phác bố cục nhưng khi sang bước 2 vẽ hình thì đa số các em nếu thực hiện theo trình tự các bước thì hình vẽ thường vượt ra khỏi bố cục đã phác, hoặc nhỏ hơn dẫn đến hình vẽ không cân đối.
2.3.4.Về màu sắc
Khi thử tiến hành cho các em so sánh giữa 2 bài vẽ : một bài vẽ hình và một bài vẽ màu, 100 % các em học sinh đều thích bài vẽ màu hơn. Vì vậy, màu sắc là yếu tố đặc biệt tạo được hứng thú nhất cho học sinh. Phần lớn do màu sắc là yếu tố tác động mạnh đến canh thị giác của con người, nhất là lứa tuổi học sinh THCS đại đa số các em thích vẽ màu, đặc biệt là ở phân môn vẽ tranh, phần vẽ hình vẽ đường nét được các em vẽ nhanh, và các em dành phần lớn thời gian để vẽ màu. Vẽ màu kĩ , những màu sắc sặc sỡ, bắt mắt thường là những màu được các em sử dụng nhiều nhất, một số học sinh có cách nhình màu rất tốt, sự cảm thụ màu hết sức nhạy cảm. Các em đã bắt đầu có sự suy nghĩ tìm tòi, đầu tư về màu sắc trong bài vẽ của mình. Một số em đã biết cách pha màu, chồng màu kéo màu từ mảng chính ra xung quanh một cách hợp lý, làm nổi bật trọng tâm bài vẽ nhưng vẫn tạo được sự hài hoà về màu sắc.
Tuy nhiên nhiều em còn chưa thể hiện được độ đậm nhạt ở trong bức tranh làm cho bức tranh đều đều màu sắc dàn trải, không tạo được chiều sâu của bức tranh là” gần thì tỏ , xa thì mờ”. Nên đa phần tranh của các em mang đậm tính chất trang trí. Xem hình sau:
Thông qua việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên ta thấy rằng, người giáo viên cần chủ động trong việc nắm bắt vấn đề và tìm phương hướng giải quyết vấn đề đó là một điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho tiết dạy bài dạy hiệu quả hơn, đem lại sự thành công trong công tác giảng dạy.
3. Thực trạng học tập
1/ Phần lớn học sinh chưa năm bắt được việc xây dựng hình tượng điển hình. Bài vẽ còn chung chung, mang nặng tính chất hình thức.
2/ Học sinh THCS có cách nhìn cách cảm nhận về màu hết sức trong sáng, lung linh đầy màu sắc, là một sự kết hợp những màu sắc tươi sáng tạo sự trẻ trung cho bài vẽ.
3/ Trong khi tiến hành bài vẽ các em không theo trình tự tiến hành các bước làm bài, mà làm theo ngẫu hứng, thích vẽ cái gì thì vẽ cái nấy, không chú trọng trước sau hay chính phụ trong bài vẽ.
4/ Học sinh THCS đôi khi còn lười suy nghĩ, chưa có thói quen sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài vẽ hiệu quả hơn, và chưa có thói quen quan sát nhận xét sự vật hiện tượng cho bài vẽ có chiều sâu và hiệu quả hơn.
5/ Kỹ năng sử dụng của học sinh THCS còn kém vì các em chỉ được tiếp xúc với 2 loại màu: Màu sáp và màu dạ.
Từ những vấn đề cơ bản đó thì đối với phân môn vẽ tranh, phương pháp giảng dạy phù hợp là phương pháp quan sát và phương pháp liên hệ với thực tiển cuộc sống. Ngoài ra là sự kết hợp các phương pháp dạy học như gợi mỡ, thảo luận nhóm, vấn đáp, luyện tập,...
Vẽ tranh đề tài thì việc liên hệ vơí thực tiễn cuộc sống là một điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc tìm và lựa chọn hình tượng được sâu sắc hơn, nêu rõ trọng tâm đề tài hơn.
4. Biện pháp phát triển ngôn ngữ tạo hình trong phân môn vẽ tranh
4.1. Chuẩn bị
 	Đối với môn Mĩ thuật thì đồ dùng dạy học luôn đặt lên vị trí hàng đầu, đồ dùng càng phong phú thì hiệu quả học tập càng cao vì đó là cở sở quan trọng trong việc hình thành kiến thức của các em. 
Về phía giáo viên ngoài việc chuẩn bị giáo án, phương pháp dạy học thì một điều không thể thiếu đó là đồ dùng trực quan(tranh , ảnh minh hoạ) vì ở lứa tuổi trẻ em thì tranh ảnh nó có tác dụng rất mạnh đến canh thị giác và trí nhớ của các em, do vậy cần phải có đồ dùng trực quan phong phú và phải biết sử dụng đúng lúc.
Về phía học sinh củng phải có sự chuẩn bị đầy đủ sách vở, giấy vẽ, màu, chì tẩy, những đồ dùng học tập cần thiết, ngoài ra phải tìm hiểu và quan sát tham khảo những đề tài mà mình sẽ thể hiện trước khi làm bài.
Khi soạn giáo án cần soạn kỹ biết chắt lọc những lời thoại, câu hỏi chính và câu hỏi gợi mở phải rõ ràng dễ hiểu nhằm tạo hứng thú và sôi nổi trong từng đối tượng học sinh. Nên tránh những câu hỏi dài khó hiểu và những câu hỏi lửng . 	+ Đối với học sinh kém cần gợi mở cụ thể hơn giúp các em nhận ra chổ chưa đúng chưa đẹp để bài vẽ đẹp hơn .Ví dụ: Bố cục có lỏng lẻo quá không, hay màu sắc có lộn xộn quá không? vv...
+ Đối với học sinh khá, trung bình thì có thể gợi mở để các em tìm tự tìm ra, tự điều chỉnh hay sửa chữa. Ví dụ: Chỗ này, màu này như thế nào ? Làm sao cho bài vẽ đẹp hơn ?
+Với học sinh giỏi thì yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Thử tìm xem bài vẽ có chổ nào chưa hợp lý? Có thể vẽ khác được không?
Để phục vụ cho quá trình lên lớp tốt, thì giáo viên cần phải có thời gian và quá trình thâm nhập giáo án kĩ càng, phải nắm vững tiến trình bài dạy, để vừa đảm bảo tiến trình bài dạy vừa giúp học sinh tiếp thu bài một cách có hiệu quả nhất, và điều cốt yếu nhất là phát huy tính tích cực sáng tạo của từng em, đồng thời phải tạo được bầu không khí vui vẻ, thoải mái trong khi các em làm bài .
Giáo viên phải phân tích kĩ các bước tiến hành một bài vẽ tranh đề tài, phải thực hiện theo những bước nào? Những bước đó là gì? và kết hợp đồ dùng minh hoạ đễ học sinh dễ nhớ dễ nắm bắt, và bài vẽ của học sinh lớp trước đễ các em có thể thấy được mức độ thể hiện bài, tham khảo tranh của các hoạ sĩ về nội dung. Tuỳ vào số lượng bài mà những bài sau có thể giảm thời lượng lý thuyết và tăng dần thời gian thực hành, hướng các em đi vào trình tự các bước vẽ tranh
Vận dụng triệt đễ lợi thế khoa học công nghệ thông tin sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác giảng dạy. Cho nên là người giáo viên nói chung giáo viên Mỹ thuật nói riêng cần phải nhanh chóng tiếp cận nắm bắt những lợi thế mà khoa học đem lại. Đồng thời kết hợp tổ chức các trò chơi có liên quan, tạo hứng thú và sự đổi mới trong cách giảng dạy.
4.3.2. Phần lên lớp 
Để khẳng định năng lực sư phạm cũng như vai trò chủ động điều hành, giáo viên phải linh hoạt trong thời gian lên lớp, phải đảm bảo quy trình thời gian, phân chia lớp hợp lý, giúp các em nhận thức và hiểu được bài học ngay tại lớp, giúp các em vẽ được một bài vẽ tranh theo ý thích đúng qui trình thực hiện các bước vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung ( Tìm và chọn nội dung đề tài)
Qua hình minh hoạ, giáo viên gợi ý giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài, tìm ra được cách thể hiện (cách vẽ ) khác nhau , tìm ra những ý tưởng hay dí dỏm cho tranh của mình 
+ Hướng dẫn học sinh cách vẽ 
Nên giới thiệu qua đồ dùng minh hoạ và kết hợp trực tiếp minh hoạ bảng để học sinh nhận thức rõ ràng hơn trình tự các bước cũng như ưu điểm khi tiến hành theo trình tự các bước đem lại, và nó cụ thể hơn khi chỉ là những lý thuyết sáo rỗng. Nếu như giới thiệu nội dung rồi mới chỉ vào tranh, e rằng học sinh không chú ý không nhận ra được cách tiến hành(đâu là mảng, đâu là hình trong mảng )
-Tìm bố cục, phác mảng chính phụ sao cho hợp lý, cân đối với tờ giấy rõ trọng tâm, rõ nội dung thể hiện được chủ đề.
-Vẽ hình, vẽ màu phải rõ đặc điểm của đối tượng không vẽ chung chung. Vẽ màu thì không vẽ hình quá chi tiết cụ thể sẻ rát khó đễ thể hiện, màu có thể vẽ như thực hoặc theo cảm hứng, song cần chú ý tương quan giữa các màu, không vẽ độc lập từng màu, chú ý đến độ đậm nhạt của các màu gam màu để thể hiện được tính chất bài vẽ. 
+ Hướng dẫn học sinh làm bài
Giáo viên cố gắng làm việc với nhiều học sinh và bao quát tổng thể lớp giúp các em tìm cách thể hiện ý tưởng của bản thân, bố cục mảng vẽ hình tìm màu. Dùng phương pháp gợi mở trong khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh sẽ đạt hiệu quả hơn cả.
Bên cạnh đó phương pháp giảng dạy phù hợp ở phần thực hành cũng rất quan trọng. Cần xác định được nội dung kiến thức trọng tâm và yêu cầu hợp lý với đối tượng học sinh.
Luôn tạo được bầu không khí thoải mái nhẹ nhàng vui vẻ trong từng tiết dạy theo đặc điểm riêng của từng phân môn.
Cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc nắm vững kiến thức lý thuyết, vận dụng kiến thức vào bài vẽ một cách linh hoạt không máy móc đễ làm cho bài vẽ sống động hơn, có hồn hơn.
5. Kết quả nghiên cứu
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào quá trình giảng dạy của mình, tôi nhận thấy phần lớn các em học sinh đã ‎‏‎‏ý thức được hơn về bố cục, hình mảng, đường nét, màu sắc...Và từng bước biết cách tiến hành bài vẽ tranh theo các bước, sử dụng đường nét phù hợp, kết hợp màu sắc một cách hài hòa. Do vậy, các em có hứng thú hơn trong các tiết học. Và không khí phấn khởi học tập của học sinh chính là nguồn cổ vũ động viên lớn, giúp tôi có thêm sự phấn khởi, hăng hái trong công việc dạy học và các công việc khác mà nhà trường giao cho. Tôi nhận thấy, qua đánh giá bài vẽ của học sinh,các em đã tiếp cận được với ngôn ngữ tạo hình một cách dễ dàng hơn, vì khi thầy giáo là người giúp các em tự đánh giá các tác phẩm của mình. Sau khi tìm hiểu, nghiên cứu và áp dụng sáng kiến của mình vào giảng dạy, tôi đã lấy bảng điểm học sinh lớp 9A - Môn Mỹ thuật trong hai năm học (2013- 2014 ; 2014 – 2015) để so sánh, kết quả thu được như sau:
Môn
Lớp
SốHS
Điểm kiểm tra học kỳ II năm học 2013- 2014
Mỹ thuật
8A
36
0 – 4
(CĐ)
5 – 6
(Đ)
7 – 8
(Đ)
9 – 10
(Đ)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
0
0
3
10,9%
29
80,5%
4
11,1%
So sánh:
Môn
Lớp
Số HS
Điểm kiểm tra học kỳ I năm học 2014 - 2015
Mỹ thuật
9A
(8Acũ )
236
0 – 4
(CĐ)
5 – 6
(Đ)
7 – 8
(Đ)
9 – 10
(Đ)
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
0
0
1
2,8%
25
69,4%
10
27,8%
Một số bài vẽ của Học sinh:
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ
Kết luận
“Nghề dạy học là nghề cao‏ quý ‎‎nhất trong những nghề cao ‏quý ‎” ( Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng) .Vậy, để trở thành người giáo viên tốt dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, trước hết mỗi chúng ta – các “ kĩ sư tâm hồn ” phải không ngừng trau dồi kiến thức, tìm tòi học hỏi, đồng thời bổ sung tinh thần yêu nghề mến trẻ thể hiện sự nhiệt huyết của bản thân với ngành nghề mình đã chọn. Mỹ thuật loại hình nghệ thuật tạo ra cái đẹp, hướng con người tới cái đẹp và thưởng thức cái đẹp. Vì vậy dạy mỹ thuật nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng cần phải làm cho học sinh phấn khởi mong muốn vẽ đẹp, thể hiện cảm xúc của mình qua bài vẽ. 
Phân môn vẽ tranh hoạt động thực hành là chủ yếu vì vậy cần luyện tập nhiều bài. Trong khi dạy học sinh làm bài , giáo viên cần bao quát lớp để theo dõi, giúp đỡ, gợi ý , điều chỉnh, bổ sung những gì cần thiết.
Qua quá trình công tác, trực tiếp đứng lớp tham gia giảng dạy, bản thân tôi cũng đã rút ra được một số kinh nghiệm bổ sung vào vốn kiến thức hiện có, để ngày càng hoàn thiện bản thân hơn trong công việc mà mình đã lựa chọn. Rằng trước hết mỗi giáo viên đứng lớp không chỉ truyền đạt kiến thức đầy đủ cho học sinh mà phải gần gũi với học sinh , nắm bắt được tâm tư tình cảm của học sinh, biết được từng đối tượng học sinh để có cách xử lý phù hợp với từng trường hợp xảy ra. Vì vậy người giáo viên cần phải đặt vị trí của mình vào thực tế giáo dục để có những cách thức giáo dục phù hợp... Chính điều đó cũng thôi thúc tôi từ bao năm nay – khi xác định gắn bó cả cuộc đời với ngành Giáo dục, không ngại khó, ngại khổ cống hiến cho giáo dục vùng cao để xứng đáng là người giáo viên dạy giỏi, trau dồi những kiến thức, học hỏi bạn bè, đúc rút kinh nghiệm tạo cho mình một phong thái khi đứng lớp, tạo điều kiện đầy đủ đễ có thể đáp ứng yêu cầu của công tác giảng dạy, xứng đáng là người giáo viên của thời đại mới. 
2. Đề xuất, kiến nghị
- Đối với ngành giáo dục
Ngành giáo dục cần đầu tư cơ sở vật chất cho các trường THCS một số phòng học chức năng riêng để phù hợp với đặc thù môn học.
Ngành giáo dục cần quan tâm hơn nữa trong việc xây dựng cơ chế và tiêu chuẩn đánh giá kết quả học tập môn mỹ thuật nhằm khích thích tinh thần, thái độ học tập tích cực của học sinh. Nếu chuẩn đánh giá như hiện nay là: đat hay không đạt thì khó phân hóa học sinh và khó phát huy tính tích cực tự giác và lòng say mê học tập
Để nâng cao trình độ thực chất của giáo viên, ngành giáo dục nên có biện pháp bồi dưỡng cho giáo viên có nhu cầu nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức các hội thảo, chuyên đề để giáo viên có thể trao đổi kinh nghiệm, học tập nhau trong quá trình công tác - dù với quan niệm của không ít người môn Mỹ thuật là môn không quan trọng. Những mỹ thuật luôn có trong tâm hồn mỗi người bởi cái đẹp theo đuổi con người từ lúc lọt lòng đến khi trở về cái bụi. Và " Nghệ thuật là để làm thức tỉnh lương tâm con người, còn khoa học là để tạo ra cuộc sống sung sướng cho họ”.
- Đối với trường
 	Do đồ dùng dạy học của nhà trường còn thiếu thốn, tranh ảnh minh họa trong sách giáo khoa còn sơ sài, nhiều màu còn sai. Vì thế nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho giảng dạy và học bộ môn như: tranh ảnh minh họa, các mô hình, vật mẫu....
- Đối với phụ huynh
Có nhận thức tích cực và đúng đắn hơn về ý nghĩa và tầm quan trong của môn học mỹ thuật để động viên tạo điều kiện cho con em thích cực tham gia học tập môn này. Nhiều phụ huynh quan niệm Mỹ thuật là môn phụ, chỉ cần đạt đạt là được nên ít quan tâm đến việc nhắc nhỡ, động viên, tạo điều kiện cho con cái học tập
 - Đối với giáo viên:
 + Giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tâm huyết với chuyên môn
 + Thường xuyên trau dồi học tập, nâng cao kiến thức, kĩ năng đối với môn học mĩ thuật.
 + Quan sát, phát hiện gợi ý hoặc chỉ những gì chưa hợp lí ở từng bài vẽ để học sinh tự điều chỉnh, bổ sung theo khả năng cảm nhận của mình, không áp đặt. Đồng thời gv liên hệ nội dung bài học với thực tiễn cuộc sống xung quanh, dù là nhỏ, tạo điều kiện cho hs nhận thức phong phú, sâu sắc hơn.
 + Tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng trong giờ dạy.
 + Tìm và chọn, làm đồ dùng dạy học đày đủ, có trọng tâm, đẹp theo ý tượng của mình. 
 - Đối với học sinh:
 + Phát huy trí tưởng, thể hiện sự sáng tạo qua các bài vẽ
 + Chấp hành tốt các quy định của môn học như sắm đầy đủ đồ dùng học tập....
 + Các bài thực hành thể hiện bằng chính khả năng của mình.
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Giới hạn phạm vi và nội dung nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của đề tài
2. Thực trạng của đề tài
3. Thực trạng về học tập
4. Biện pháp phát triển ngôn ngữ tạo hình
5. Kết quả nghiên cứu
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ 
1
1
1
2
2
2
2
2
3
3
4
12
13
15
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Lịch sử mĩ thuật Việt Nam và thế giới.
- Khai thác thông tin qua internet.
- Sách giáo khoa mĩ thuật THCS.
- Chuẩn kiến thức kĩ năng Mĩ thuật THCS.

File đính kèm:

  • docskkn2015.doc
Sáng Kiến Liên Quan