Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng sống cho học sinh trung học cơ sở thông qua giờ sinh hoạt lớp
Rèn kĩ năng sống là một mặt giáo dục cần đặc biệt coi trọng và nhất là trong thập kỉ XXI khi sự nghiệp giáo dục đang được đẩy mạnh. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng. Bằng nhiều hình thức, nhiều con đường, trong đó việc rèn kĩ năng sống chiếm một vị trí quan trọng. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho các em. Đồng thời nó cũng định hướng cho các em rèn luyện hành vi và thói quen ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của các em bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau; đó là lời nói không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.
Kĩ năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống.Theo bản thân, kĩ năng sống đơn giản là tất cả những điều cần thiết chúng ta phải biết để có thể thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Kĩ năng sống được hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm kĩ năng sống như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân.Dù là kĩ năng nào cũng đều rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người. Cho nên, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có một tầm rất quan trọng.
Ở bậc trung học, các môn học vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức vừa cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai, làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen đạo đức chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc trung học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kĩ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện - học sinh tích cực.” Trên tinh thần đó, bản thân nhận thấy rằng: chính ở dưới mái trường các em học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh trung học, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này.
ối kết hợp nhiều lực lượng: các thầy cô Tổng phụ trách, thầy cô giáo bộ môn, phụ huynh học sinhcác lực lượng giáo dục để đạt hiệu quả cao trong quá trình rèn kỹ năng sống cho HS. Và rèn kỹ năng sống là một quá trình lâu dài chứ không chỉ trong một tiết học vì vậy ngoài tiết học người GV còn quan tâm giáo dục các em qua các giờ lên lớp, qua các tiết sinh hoạt dưới cờ, qua hoạt động Ngoài giờ lên lớp, qua các tiết dạy Thanh lịch – Văn minh, qua các hoạt động trải nghiệm: văn nghệ, thể dục thể thao, hội chợ quê, tham quan ngoại khóa hay qua chính những biểu hiện cụ thể trong cuộc sống hàng ngày để giáo dục các em. Ngoài các phương pháp trên, người GV khi dạy kỹ năng sống cho các em cũng cần lưu ý đan xen các hình thức văn nghệ như hát, múa, nhảyđể tiết dạy thêm phong phú, đa dạng. Các tiết mục văn nghệ liên quan đến chủ đề tiết dạy thì càng hiệu quả cao. Cách tổ chức lớp học cũng rất cần quan tâm: hình thức diễn đàn, hay thảo luận, thuyết trình, báo cáoKhông gian tổ chức tiết học cũng rất quan trọng như cách trang trí, kê bàn ghếđể tạo một không gian gần gũi, ấm áp, mới lạdễ dàng tạo một tâm thế cho các em khi tiếp cận các vấn đề. Ảnh minh họa: Học sinh trình bày một tiết mục múa Một số lưu ý khác khi tiến hành tiết dạy: đó là khâu chuẩn bị. Người GV phải họp bàn với cán bộ lớp để đưa ra kịch bản cho tiết sinh hoạt lớp trước một tuần. Phân công người chuẩn bị, giao nhiệm vụ cho từng cá nhân trong lớp để đảm bảo HS nào cũng được làm việc. Các tiết dạy nên linh hoạt thay đổi các hình thức tổ chức để tạo được sự hứng thú cho HS, đạt hiệu quả giáo dục. Trong mối tiết dạy nên sử dụng phối hợp các phương tiện dạy học hiện đại. Sau mỗi tiết dạy có phần nhận xét, rút kinh nghiệm để những tiết sau tốt hơn. V. Minh họa một tiết dạy TIẾT 9: SINH HOẠT LỚP THEO CHỦ ĐỀ NÓI LỜI YÊU THƯƠNG A. Môc tiªu cÇn ®¹t: 1. NhËn thøc: - HS thấy được tầm quan trọng của lời yêu thương trong cuộc sống - HS hiểu được ý nghĩa của lời yêu thương trong cuộc sống - HS biết nói những lời yêu thương với những người xung quanh 2. KÜ n¨ng: - BiÕt c¸ch tæ chøc giê sinh ho¹t líp - RÌn kÜ n¨ng tr×nh bµy tríc tËp thÓ - H×nh thµnh kÜ n¨ng hîp t¸c, giao tiÕp, đóng tiểu phẩm 3. Th¸i ®é: - Tham gia, hëng øng mäi ho¹t ®éng trong giê sinh ho¹t - Vượt qua được trạng thái ngại ngùng, xấu hổ khi nói những lời yêu thương với những người xung quanh B. Néi dung vµ h×nh thøc ho¹t ®éng: 1. Néi dung:Gồm 3 phần - Phần 1: Sơ kết tuần 8 và phổ biến kế hoạch tuần 9 - Phần 2: Sinh hoạt theo chủ đề - Phần 3: GV tổng kết, nhận xét, dặn dò. 2. H×nh thøc ho¹t ®éng: - Phim phóng sự - Phim hoạt hình - Tiểu phẩm - Trò chơi - Văn nghệ - Câu chuyện C. Tµi liÖu vµ ph¬ng tiÖn - Các tài liệu liên quan đến việc dạy kĩ năng sống - Tranh ảnh, băng hình, phóng sự, câu chuyện có liên quan đến chủ đề sinh hoạt lớp - Các phương tiện CNTT hiện đại - Phấn, bảng, hoa, khăn trải bàn, phần quà - Tiểu cảnh - Trang phục đóng tiểu phầm, văn nghệ * GVCN thiết kế tiết dạy và phân công học sinh - Phân công học sinh thực hiện chương trình - Hướng dẫn cán bộ lớp đôn đốc, kiểm tra, nhắc nhở các bạn chuẩn bị - Phân công người điều khiển, chuẩn bị tiết mục văn nghệ, người dẫn chương trình, tiểu phẩm - Trang trí lớp, khăn trải bàn, lọ hoa. D. Tiến trình hoạt động: 1. Ổn định tổ chức ( 1 phút) 2. Bài mới * GV giới thiệu (1 phút) Ho¹t ®éng cña giáo viên Ho¹t ®éng cña học sinh Néi dung cÇn ®¹t Hoạt động 1: Sơ kết công tác thi đua tuần 8- Kế hoạch tuần 9 (10 phút) * GV phổ biến nội dung tiết sinh hoạt và giao nhiệm vụ cho lớp trưởng điều hành phần sơ kết * GVCN nhận xét đánh giá nội dung sơ kết tuần.... * GVCN giải đáp thắc mắc cho HS (nếu có) * GVCN trao cờ cho tổ và quà cho các cá nhân xuất sắc * GVCN hắt máy * GVCN yêu cầu lớp trưởng đọc kế hoạch tuần 10 và phân công chuẩn bị giờ sinh hoạt tuần 10 * GV giới thiệu 2 HS lên dẫn chương trình: Minh Tuấn và Mai Anh * Lớp trưởng nhận nhiệm vụ * Lớp trưởng sơ kết thi đua tuần 8 * Lớp trưởng nhận xét ưu điểm, tồn tại trong tuần qua và biện pháp khắc phục -Ưu điểm: + Học tập + Nề nếp + Hoạt động khác - Tồn tại: - Biện pháp khắc phục: I. S¬ kÕt c«ng t¸c tuÇn 8 vµ kÕ ho¹ch tuÇn 9 1. S¬ kÕt tuÇn 8: - Ưu điểm: + Học tập + Nề nếp + Hoạt động khác - Tồn tại: - Biện pháp khắc phục: 2. KÕ ho¹ch tuÇn 10: - Phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm. - Chuẩn bị tốt các bài kiểm tra trong tuần - Chuẩn bị sinh hoạt lớp theo chủ đề: Văn nghệ chào mừng ngày 20/10 Hoạt động 2: Sinh hoạt theo chủ đề (29 phút) * GVCN hỗ trợ HS giải đáp câu hỏi khó (nếu có) * GV lên nhận xét, chốt ý * GV lên nhận xét, giải đáp thắc mắc (nếu có) * GVCN hỗ trợ HS giải đáp câu hỏi khó (nếu có) * GV lên nhận xét, chốt * MC dẫn chương trình chiếu video phóng sự “Bạn đã bao giờ nói lời yêu thương?”(chiếu máy) * MC giới thiệu nội dung sinh hoạt theo chủ đề: Phần 1: Thông điệp yêu thương Phần 2: Cùng nói lời yêu thương * MC: chiếu đoạn phim (máy) * HS xem phim ? Đoạn băng hình trên dựa theo câu chuyện Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch – Andecxen. Sau khi xem đoạn Băng hình này các bạn có cảm nhận như thế nào? * Gọi các bạn HS trả lời * HS khác nghe và nhận xét, bổ sung ? Dựa vào câu chuyện trên, kết hợp với hiểu biết của các bạn, hãy cho biết nếu con người không có tình yêu thương thì điều gì sẽ xảy ra? (Máy chiếu) * MC đọc yêu cầu thảo luận * HS thảo luận theo nhóm * Đại diện các nhóm trả lời * Các nhóm khác nghe, nhận xét, bổ sung * MC mời GVCN cho ý kiến nhận xét * MC giới thiệu tiểu phẩm “Con đường về nhà” (máy) * HS đóng tiểu phẩm * HS xem, cảm nhận * MC tổ chức trò chơi “Mảnh ghép yêu thương” (máy) * Đại diện các nhóm treo bảng phụ, trình bày kết quả * Các nhóm khác nghe, nhận xét, bổ sung * MC mời GVCN giải đáp thắc mắc (nếu có) và nhận xét * MC chuyển ý * MC đọc thông điệp yêu thương của HS *MC gọi các bạn lên đọc 1 số thông điệp yêu thương của PH * HS đọc ? Chắc hẳn các bạn sẽ rất ngạc nhiên khi hôm nay chúng ta được nghe những lời yêu thương từ bố mẹ của mình. Vậy khi nghe những lời yêu thương ấy bạn có suy nghĩ gì? * HS trả lời cá nhân * MC giới thiệu tiết mục múa “Đất nước mến thương„ * HS xem, cảm nhận * MC mời GVCN lên nhận xét tiết sinh hoạt II. Sinh ho¹t theo chñ ®Ò: Nói lời yêu thương Phần 2: Cùng nói lời yêu thương ( phút) 1. Nhận và gửi thông điệp yêu thương tới người thân, bạn bè Hoạt động 3: Tổng kết, dặn dò (4 phút) * GVCN nhận xét, đánh giá giờ sinh hoạt ngày hôm nay * GV nhắc lại kế hoạch tuần 10 và dặn dò HS VI. Kết quả kiểm nghiệm đề tài Trong quá trình thực hiện, tôi xác định rằng kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho HS bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, rất gần gũi với các em, đây là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập trong học tập, vui chơi giải trí và sinh hoạt thường ngày. Tuy nhiên việc giáo dục kỹ năng sống cần phải có quy trình, có thời gian và theo kiểu “mưa dầm thấm đất”, chứ không thể có kết quả ngay trong một thời gian ngắn. Qua việc đưa giáo dục kỹ năng sống trong giò sinh hoạt lớp tôi đã bước đầu giúp đỡ học sinh rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như: kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phát biểu trước đám đông, kỹ năng ứng xử, kỹ năng tự bảo vệ sức khỏe....Các em đã có ý thức tốt hơn trong hoạt động nhóm, đã giúp các em tiến bộ về kỹ năng hợp tác, lắng nghe, đánh giácó trách nhiệm, có kỹ năng quản lý về thời gian trong học tập tốt hơn.... bước đầu các em đã biết vận dụng kiến thức đã học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe, giải thích các hiện tượng thực tiễn, biết giúp đỡ, đoàn kết, duy trì cuộc sống an toàn, biết vâng lời, lễ phép với thầy cô giáo hơn Và quan trọng hơn, giáo dục kĩ năng sống thông qua giờ sinh hoạt lớp trở nên phong phú hơn, thu hút được các em nhiều hơn. Đặc biệt, đa số các em đã có ý thức hơn trong việc tự rèn luyện kỹ năng sống nhằm tự hoàn thiện mình. Kết quả cụ thể: 1. Trước khi được rèn kĩ năng sống: Khảo sát trên đối tượng học sinh lớp 6 (đầu năm học 2013 – 2014). Các em là học sinh ở bậc Tiểu học lên, ít nhiều các em cũng được rèn về KNS nhưng tôi tiến hành khảo sát dựa trên các kỹ năng cơ bản dành cho học sinh THCS. Thông qua các câu hỏi trắc nghiệm với các mức độ tôi rút ra được kết quả như sau: Nhìn vào kết quả khảo sát, ta thấy một số kỹ năng các em chưa được hình thành, một số kỹ năng được hình thành nhưng chưa tốt; số lượng HS có kỹ năng tốt rất ít. Mức độ Nội dung Chưa hình thành Có hình thành Tốt Kỹ năng tự phục vụ bản thân 40% 50% 10% Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời 100% Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả 90% 10% Kỹ năng điều khiển và quản lý cảm xúc 30% 50% 20% Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân 30% 50% 20% Kỹ năng giao tiếp và ứng xử 20% 60% 20% Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông 80% 15% 5% Kỹ năng hợp tác và chia sẻ 30% 60% 10% Kỹ năng đối diện và ứng phó với khó khăn trong cuộc sống 80% 20% 0% Kỹ năng đánh giá người khác 80% 20% 0% 2. Sau khi được rèn kỹ năng sống: Hơn hai năm sau khi được rèn về kỹ năng sống các em đã có sự chuyển biến rõ rệt. Vẫn dựa trên mười tiêu chí như lúc đầu khảo sát nhưng ngoài việc dựa vào hệ thống câu hỏi trắc nghiệm từng kĩ năng, tôi còn căn cứ vào việc quan sát các em thông qua các hoạt động, cũng như thông qua việc trao đổi với GV bộ môn và Phụ huynh học sinh, kết quả thu được như sau: Mức độ Nội dung Chưa hình thành Có hình thành Tốt Kỹ năng tự phục vụ bản thân 100% Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời 20% 80% Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả 30% 70% Kỹ năng điều khiển và quản lý cảm xúc 30% 70% Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân 30% 70% Kỹ năng giao tiếp và ứng xử 20% 80% Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông 10% 40% 50% Kỹ năng hợp tác và chia sẻ 10% 30% 60% Kỹ năng đối diện và ứng phó với khó khăn trong cuộc sống 20% 50% 30% Kỹ năng đánh giá người khác 10% 60% 30% Ngoài ra tôi còn thống kê kết quả qua ba lần khảo sát (cuối năm học 2013 – 2014, cuối năm học 2014 – 2015, cuối học kì I năm học 2015 – 2016), so sánh, đối chiếu thông qua biểu đồ. Qua đó, thấy được rõ mức độ chuyền biến của các em qua ba năm học. * Chú thích: 1 Kỹ năng tự phục vụ bản thân 2 Kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời 3 Kỹ năng quản lý thời gian hiệu quả 4 Kỹ năng điều khiển và quản lý cảm xúc 5 Kỹ năng tự nhận thức và đánh giá bản thân 6 Kỹ năng giao tiếp và ứng xử 7 Kỹ năng thể hiện tự tin trước đám đông 8 Kỹ năng hợp tác và chia sẻ 9 Kỹ năng đối diện và ứng phó với khó khăn trong cuộc sống 10 Kỹ năng đánh giá người khác Kết quả trên đây cho thấy việc giáo dục KNS cho HS thông qua giờ sinh hoạt lớp là hoàn toàn phù hợp và đem lại nhiều tín hiệu đáng mừng. Ngoài việc các em được rèn luyện các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi, giúp các em tự tin mạnh dạn hơn trong giao tiếp; biết cách đối thoại với nhau trong các vụ việc mâu thuẫn ở trường, ở lớp; việc rèn KNS còn có tác động không nhỏ đến kết quả rèn luyện đạo đức và học tập của các em. Các em có ý thức ham học, dám thể hiện bản lĩnh của mình thông qua các kì thi mang tính cọ xát, tích cực tham gia các hoạt động của trường, lớp. Trong giờ học các em thể hiện thái độ tự tin, mạnh dạn trao đổi và đề xuất các ý kiến vì vậy mà chất lượng rèn luyện hai mặt đạo đức và học tập nâng cao rõ rệt qua các năm học. Dưới đây là kết quả rèn luyện hai mặt đạo đức và học tập qua ba năm học. Kết quả này cho thấy, việc rèn KNS cho HS tốt sẽ giúp các em có ý thức học tập tốt và là cơ sở để giúp nâng cao chất lượng học tập. BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC (Tổng số: 46 học sinh) Xếp loại Năm học Hạnh kiểm Tốt Hạnh kiểm Khá Hạnh kiểm Trung bình Hạnh kiểm Yếu 2013- 2014 41 (89,1%) 5 (10,9%) 0 0 2014- 2015 44 (95,7%) 2 (4,3%) 0 0 2015- 2016 46 (100%) 0 0 0 BẢNG THỐNG KÊ KẾT QUẢ RÈN LUYỆN HỌC LỰC (Tổng số: 46 học sinh) Xếp loại Năm học Giỏi Khá Trung bình Yếu 2013- 2014 38 (82,6%) 8 (17,4%) 0 0 2014- 2015 40 (87%) 6 (13%) 0 0 2015- 2016 42 (91,3%) 4 (8,7%) 0 0 Không những kết quả rèn luyện hai mặt đạo đức và học tập được nâng cao rõ rệt, việc rèn KNS sống cho HS còn góp phần thúc đẩy các phong trào thi đua của lớp đi lên. Lớp liên tục giữ vững các danh hiệu thi đua như: - Thường xuyên là lớp dẫn đầu thi đua trong khối, trong trường. - Thường xuyên là lớp dẫn đầu trong các phong trào thi đua do Đoàn – Đội phát động: ủng hộ kế hoạch nhỏ, mua tăm ủng hộ người mù, ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam; ủng hộ sách vở, quần áo cho các bạn HS có hoàn cảnh khó khăn - Liên tục trong các năm đạt thành tích Xuất sắc trong các phong trào thi đua như chào mừng ngày 20 – 11, ngày 26 – 3 - Trong ba năm liền lớp đều đạt danh hiệu: Tiên tiến Xuất sắc cấp trường. - Đạt danh hiệu: Chi đội vững mạnh cấp Quận. Có được những thành tích trên là do sự nỗ lực, cố gắng, đoàn kết của tập thể lớp. Bên cạnh đó còn phải kể đến các thành tích của cá nhân: - Lớp 6: 1 HS đạt Giải ba môn giải Toán qua Internet cấp Thành phố. 2 HS đạt danh hiệu HS Giỏi cấp Quận môn văn hóa. 3 HS đạt Giải Nhất về TDTT cấp Quận. 1 HS tham gia TDTT cấp Thành phố. - Lớp 7: 2 HS đạt Giải môn giải Toán qua Internet cấp Thành phố (Giải Nhì và Ba). 3 HS đạt danh hiệu HS Giỏi cấp Quận môn văn hóa. 4 HS đạt Giải Nhất về TDTT cấp Quận. 2 HS tham gia TDTT cấp Thành phố. - Lớp 8: 1 HS đạt Giải Nhất cuộc thi “Viết về nếp sống thanh lịch, văn minh” cấp Thành phố, 1 HS đạt Giải Khuyến khích thuyết trình trong cuộc thi “Viết về nếp sống thanh lịch, văn minh” cấp thành phố. 1 HS đạt Giải Nhì môn giải Toán bằng tiếng Anh qua Internet cấp Thành phố và tham dự cuộc thi cấp Quốc gia. 4 HS đạt danh hiệu HS Giỏi cấp Quận môn văn hóa. 5 HS đạt Giải Nhất về TDTT cấp Quận. 3 HS tham gia TDTT cấp Thành phố. Kết quả có được trên đây là nguồn động lực giúp tôi cố gắng nâng cao hiệu quả của việc giáo dục KNS cho các em trong năm học này cũng như nhiều năm học sau. C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. Kết luận: Tuy kết quả của chương trình giáo dục kỹ năng sống vẫn còn được kiểm nghiệm trong những năm học tiếp theo, tuy nhiên, những kết quả đạt được đã khẳng định rằng giáo dục kỹ năng sống là một điều cần thiết, mô hình giáo dục kỹ năng sống cần được tiếp tục phát huy và nhân rộng. Bởi lẽ, mục đích cao nhất của công tác giáo dục cho các em trở thành những con ngoan, trò giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, giúp các em ngày càng hoàn thiện, góp phần vào công tác giáo dục toàn diện của nhà trường. Để chương trình giáo dục kỹ năng sống nói chung đi vào chương trình giáo dục của nhà trường có hiệu quả thì cần phải có sự chỉ đạo cụ thể của Ban giám hiệu nhà trường, sự thống nhất cao của cả Hội đồng Sư phạm và sự hợp tác thực hiện nhịp nhàng của các bộ phận, đoàn thể trong nhà trường. Để mọi người có thể ủng hộ và tự giác thực hiện việc đưa nội dung giáo dục kỹ năng sống vào trường học thì cần thiết phải hiểu đơn giản là chúng ta hãy để cho học sinh được hoạt động trong lớp qua từng giờ học, qua từng buổi sinh hoạt, hãy để cho học sinh cơ hội tự giải quyết vấn đề, cơ hội làm việc theo nhóm, hãy hướng dẫn cho học sinh liên hệ nội dung bài học với cuộc sống thực tế, ứng dụng kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Mục tiêu giáo dục không chỉ là giảng dạy kiến thức cho học sinh mà cần làm thế nào để học sinh có thể tìm kiến thức và tự giải quyết vấn đề trong cuộc sống, làm thế nào để học sinh biết phát huy sức mạnh nhóm, tăng cường sự hợp tác trong giải quyết vấn đề. Làm như thế là người Thầy đã đưa được “cần câu” cho học sinh chứ không đưa “con cá” cho con em chúng ta. Đối với học sinh, chúng ta phải cho các em hiểu rằng, việc học tập và rèn luyện của các em hôm nay là các em đang hoàn thiện mình để hướng vào tương lai tươi đẹp. Một vài suy nghĩ góp nhặt thiển cận xin được chia sẻ với Thầy Cô, rất mong sự đóng góp thêm cho đề tài này được hoàn thiện hơn nữa nhằm giúp Thầy Cô thêm một lần nghiên cứu về việc lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, phần nào giải quyết được vướng mắc trong việc giáo dục kỹ năng sống cho con em chúng ta. II. Khuyến nghị đề xuất: Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của mỗi giáo viên cần biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha, bao dung, độ lượng, chắc chắn giáo viên sẽ thành công trong công tác giáo dục học sinh lớp mình phụ trách. Nói cách khác nhà giáo là một con người trí tuệ, đức độ giàu lòng nhân ái khoan dung có vai trò như là người cha, người mẹ đúng như câu nói: “Cha mẹ cho hình hài vóc dáng còn thầy cô cho các em kiến thức, nhân nghĩa để các em có thể vững bước trên con đường đời đầy chông gai thử thách”. Chính vì vậy để việc KNS sống cho HS thực sự đem lại hiệu quả, tôi xin đề xuất một số khuyến nghị sau: Chính quyền địa phương, các đoàn thể, các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc giáo dục học sinh. Các cấp lãnh đạo đặc biệt là SGD, PGD cần tổ chức các lớp tập huấn, các chuyên đề nhằm giúp GV có thêm kiến thức, kĩ năng để rèn KNS cho HS. Nhà trường, Ban giám hiệu có sự cân nhắc, đánh giá khi phân công giáo viên chủ nhiệm. Thấy được tầm quan trọng của GVCN trong công tác quản lí và giáo dục học sinh. Nhà trường quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ về phương tiện, cơ sở vật chất, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của GVCN để phối hợp kịp thời. Nhà trường cần tạo điều kiện để GV được học hỏi, trao đổi kinh nghiệm qua các buổi sinh hoạt chủ nhiệm, qua các sáng kiến kinh nghiệm, các tiết thi Giáo viên chủ nhiệm giỏi cấp Quận hoặc Thành phố. GVCN phải hiểu được vai trò, trách nhiệm của mình trong công tác quản lí, giáo dục học sinh và nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình trong công việc. GVCN phải có lòng yêu nghề, nhiệt tình, giàu lòng thương yêu và được học sinh và phụ huynh tin yêu, tín nhiệm. GVCN phải phối hợp chặt chẽ với giáo viên bộ môn, giáo viên Tổng phụ trách, Đoàn, Đội trong việc giáo dục học sinh. GVCN phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh trong việc quản lí, giáo dục học sinh. Các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà sư phạm cần bổ sung thêm các phương pháp giáo dục phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn hiện nay. Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ, luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp. Với thời gian nghiên cứu ngắn, trình độ và kinh nghiệm của người nghiên cứu còn hạn chế. Đề tài chắc chắn không tránh khỏi khiếm khuyết. Tôi rất mong nhận được những nhận xét, góp ý và sự chỉ dẫn của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp nhằm bổ sung và hoàn thiện hơn đề tài nghiên cứu của tôi đạt kết quả tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn chuyên viên Phòng Giáo dục, BGH nhà trường, bạn bè, đồng nghiệpđã giúp tôi hoàn thành đề tài này! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống của Unicef (2004) 2. Kỹ năng sống dành cho bạn trẻ. 3. Những giá trị sống cho Tuổi trẻ (Diane TillMan - NXB TP.HCM 2000) 4. Tài liệu tập huấn về kỹ năng sống cho trẻ em. 5. Những bí quyết giao tiếp tốt (Larry King). 6. Các sách báo, tư liệu Internet liên quan đến đề tài. 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án Việt – Bỉ, Nghiên cứu khoa học Sư phạm ứng dụng, NXb. Đại học Sư phạm. 8. Nguyễn Thanh Bình (2003), Giáo dục kĩ năng sống cho người học, Tạp chí Thông tin KHGD, số 100/2003, Hà Nội. 9. Nguyễn Thanh Bình (2007), Giáo dục kĩ năng sống, Giáo trình dành cho sinh viên Cao đẳng sư phạm, Nxb, Đại học Sư phạm Hà Nội. 10. Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Kim Dung, Lưu Thu Thủy, Vũ Thị Sơn (2003), Những nghiên cứu và thực hiện chương trình giáo dục kĩ năng sống ở Việt Nam, Viện chiến lược và Chương trình giáo dục, Hà Nội. 11. Lê Minh Châu (2003), UNICEF Việt Nam và giáo dục kĩ năng sống cho thanh thiếu niên, Báo cáo tại Hội thảo “Chất lượng giáo dục kĩ năng sống” từ 23 - 25/102003, Hà Nội.
File đính kèm:
- skkn_ren_ki_nang_song_cho_hs_thcs_2016_ban_xin_262201819.doc