Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9

 - Thực trạng chung: Thực trạng học và làm bài văn nghị luận nghị luận xã hội đang là một vấn đề được quan tâm trong các trường Trung học cơ sở nói chung và trường THCS Thiệu Thành nói riêng. Theo thống kê và theo dõi kết quả thi học, kì, thi học sinh giỏi, thi vào PHPT của mấy năm gần đây thì chất lượng làm bài môn Ngữ văn của học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em chưa được tốt. Các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có. Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt.có em còn xác định sai đề, dẫn đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu ông nọ cắm cằm bà kia” nhầm nghị luận về tư tưởng đạo lí sang nghị luận về sự việc hiện tượng đời sống.Sở dĩ chất lượng phần văn nghị luận xã hội còn chưa đạt yêu cầu như vậy là do nhiều nguyên nhân:

 - Về giáo viên:

Mặc dù trong những năm gần đây, hầu hết giáo viên đã nắm chắc được cấu trúc của các đề thi học sinh giỏi và thi vào lớp 10, một phần không thể thiếu là câu hỏi liên quan đến kiểu bài nghị luận xã hội, thế nhưng một số giáo viên vẫn cho rằng câu hỏi chỉ chiếm tỉ lệ điểm trong bài khoảng 30% số điểm nên chưa tập trung nhiều để hướng dẫn học sinh, khiến kiến thức cơ bản học sinh nắm chàng màng. Tư tưởng học sinh làm bài lại chỉ chăm chú đến phần nghị luận văn học mà không nghĩ rằng đây là phần dễ đạt điểm tối đa. Hơn nữa lâu nay có khá nhiều học sinh và ngay cả thầy cô cứ nghĩ rằng văn hay là câu chữ phải “bay bỗng”, phải “lung linh”, nghĩa là dùng cho nhiều phép tu từ, nhiều từ “sang”, nhiều thuật ngữ “oách” mà quên rằng văn hay là sự chân thực, sự giản dị, tức là nói những điều mình nghĩ và nói bằng ngôn ngữ bình thường, không cao giọng, không uốn éo làm duyên.

 - Về học sinh.

 Trong những năm gần đây học sinh không hứng thú muốn học môn Ngữ văn, nhất là ngại làm những bài văn. Có lẽ ngoài nguyên nhân khách quan từ xã hội, thì một phần cũng do làm văn khó, lại mất nhiều thời gian, “công thức” làm văn cho các em lại không hình thành cụ thể. Các em không phân biệt rõ các thao tác nghị luận chính mà mình sử dụng. Kĩ năng tạo lập văn bản của học sinh ở trường THCS Thiệu Thành còn kém nhiều và rất hiếm có những bài nghị luận có được sức hấp dẫn, thuyết phục bởi cách lập luận rõ ràng, chính xác, đầy đủ và chặt chẽ từng luận điểm, luận cứ. Bài viết của các em khi thì sai về yêu cầu thao tác nghị luận, khi lại không sát, không đúng với nội dung nghị luận của đề bài. Ví dụ đề yêu cầu nghị luận về tư tưởng đạo lí lại làm sang nghị luận về hiện tượng sự việc đời sống. Mặt khác đối với bài nghị luận xã hội dung lượng quy định (chỉ khoảng 300 đến 400 từ hoặc một trang giấy thi) nhiều học sinh vẫn chưa căn được, cứ thế phóng bút viết thậm chí hết nhiều thời gian mà bài lại không cô đọng, súc tích. Một điều nữa mà ta dễ dàng nhận thấy khi dạy kiểu bài này các em đều quan niệm là bài văn “khô khan” nên bài viết chưa có sức hút, chưa lay động được tâm hồn người đọc. Ở bất cứ thể văn nào, khô khan hay hấp hẫn là ở chất lượng. Mà chất lượng một bài văn phụ thuộc vào cảm hứng, kiến thức và các yếu tố có tính kĩ thuật như: Cách lập luận, dùng từ, câu.

 

doc21 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 14823 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam”  về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.
 8. Thầy Nguyễn Ngọc Ký: bị liệt cả hai bàn tay đã kiên trì luyện tập biết đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu, viết những dòng chữ thật đẹp trở thành nhà giáo, nhà thơ.-> Chiến thắng bản thân là chiến thắng vĩ đại nhất.
 Đấy là những con người có nghị lực phi thường trong cuộc sống, những con người biết vượt lên số phận.
 *Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng.
 1. Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người. Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ, hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS.
 HIV/AIDS là một thảm hoạ, toàn nhân loại cần có những hành động thiết thực để ngăn chặn căn bệnh thế kỷ này.
 2. Những con số biết nói về môi trường :
 14 chiếc túi ni lon được làm ra tổn phí nhiên liệu bằng lượng xăng dầu cho một chiếc ô tô chạy 1 km.
 3. 10 triệu USD là ngân sách nhà nước Việt Nam chi cho vấn đề rác thải hàng năm, trong khi không tiến hành phân loại và tái chế rác gây lãng phí 9 triệu USD (gần 140 tỉ đồng)
 Sau khi hướng dẫn học sinh sưu tầm các dẫn chứng, tôi nhận thấy các em làm bài tốt hơn. Bài viết lập luận chặt chẽ, xác thực với những dẫn chứng cụ thể trong cuộc sống đời thường. Những tấm gương giúp các em hoàn thiện mình hơn, những số liệu làm các em phải suy nghĩ và biết đưa ra hành động tích cực, để tạo nên sức hút cho bài làm.
 5, Hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận xã hội theo hướng mở.
 Trong những năm gần đây, đề thi môn Ngữ văn đã có nhiều thay đổi về cấu trúc cũng như nội dung. Xu hướng chung của các kì thi là ra đề theo hướng mở. Việc ra đề theo hướng mở đã góp phần phát huy trí thông minh, sáng tạo của học sinh trong việc học môn Ngữ văn. Nội dung của đề mở không chỉ là những vấn đề xã hội gần gũi, đời thường.
 Hiện nay cách ra đề nghị luận xã hội của các thầy cô giáo trong các kì kiểm tra hoặc thi cử sáng tạo, phong phú. Điểm qua đề thi ngữ văn vào lớp 10, thi học sinh giỏi của một số tỉnh, thành ta có thể nhận thấy cách ra đề nghị luận xã hội thường dựa vào những cơ sở sau :
 Cách thứ nhất:
 Lấy hiện tượng xã hội nổi bật được cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cở sở cho nội dung đề bài.
 Ví dụ: Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp qua đời lúc 18 giờ ngày 4/10/2013 khi ông vừa tròn 103 tuổi. Ngay sau sự ra đi của Đại tướng, trên mạng giới trẻ đồng loạt thay avatar (ảnh đại diện) chia sẻ sự mất mát lớn lao này. Theo 2 sao-trang thông tin tổng hợp của Vietnamnet.
 “Ngay trong đêm 4 tháng 10, rạng sáng ngày 5/10, một nhóm các bạn học sinh Hà Nội đã tập trung tại khu vực đường Điện Biên Phủ để thắp nến tiếc thương người anh hùng dân tộc”. Ngày 07/10/2013 báo Gia dinh.net đưa tin : “Trên mạng xã hội cư dân mạng truyền tay nhau hình ảnh một thanh niên người Pháp tên Neang đang học tập và làm việc tại thành phố Hồ Chí Minh mặc áo dài trắng, đầu chít khăn tang trắng theo đúng phong tục truyền thống của người Việt Nam, tay cầm tấm chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tỏ lòng thành kính”. Báo chí nước ngoài nhận định: “Đám tang Đại tướng là hiện tượng hiếm có!”. Hãy bàn luận về những sự việc nói trên. 
 Cách thứ 2: Dựa vào các tác phẩm văn học, người ra đề nêu lên vấn đề xã hội và yêu cầu học sinh bàn luận.
Ví Dụ 1: Một câu trong đề thi vào lớp 10 “Sở GD&ĐT tỉnh Thanh Hoá - năm học: 2012-2013” như sau :
 Có một người cha trước khi chết gọi ba con trai đến bên giường, đưa cho họ bó tên và bảo : “Các con thử bẻ bó tên này xem ai có thể bẻ gãy được. Cả ba người đều lấy hết sức bình sinh để bẻ nhưng bó tên đã không gãy chiếc nào. Người cha cầm lấy bó tên tháo ra và lần lượt bẻ từng chiếc một. Trong phút chốc bó tên đã bị gãy... ”. (Truyện ngụ ngôn : Người cha và bó đũa)
 Từ câu chuyện trên, em hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 30 dòng) bàn về tính đoàn kết trong gia đình và cộng đồng.
Ví dụ 2:
 Trong bài thơ “Quê hương” nhà thơ Đỗ Trung Quân Viết:
Quê hương mỗi người chỉ một
 Như là chỉ một mẹ thôi.
 Dựa vào ý thơ trên hãy viết một văn bản nghị luận về chủ đề quê hương.
 Đề bài yêu cầu học sinh viết một bài văn nghị luận (không quá một trang giấy thi) về chủ đề quê hương. Đây là dạng bài nghị luận xã hội (về một vấn đề tư tưởng, đạo lí) với hình thức “khá mở”, tạo điều kiện cho học sinh có thể trình bày ý kiến, cảm nhận của mình xoay quanh chủ đề quê hương như (Vai trò của quê hương đối với đời sống con người, tình yêu sự gắn bó với quê hương...)
 Qua đề văn đã dẫn trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy: việc có thêm nội dung nghị luận xã hội theo hướng mở sẽ khiến đề phong phú về nội dung và đa dạng về cách kiểm tra. Không chỉ vậy đề nghị luận xã hội còn giúp học sinh tự giác học tập biết quan tâm đến các vấn đề xã hội. Từ đó giúp các em thêm hiểu biết và chủ động trong cuộc sống. Khi làm bài các em còn có cơ hội thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản thân trước tình huống mà cuộc sống đặt ra. Nhờ đó kĩ năng sống được rèn luyện.
 Gợi ý.
- Bước 1: Đọc kĩ đề, phát hiện vấn đề cần giải quyết qua bản tin, câu chuyện, câu nói mà đề đã dẫn.
- Bước 2: Tìm những luận cứ để giải thích, chứng minh vấn đề đã được xác định.
 Việc này thường xoay quanh các câu hỏi người làm bài tự đặt ra dựa vào vấn đề cần giải quyêt.
 + Hiện tượng (vấn đề) ấy xảy ra ở đâu, như thế nào? Tại sao có hiện tượng (vấn đề) ấy.
 + Ảnh hưởng, tác động của hiện tượng (vấn đề) ấy đến cuộc sống của những người xung quanh với xã hội như thế nào?
 + Những suy nghĩ về hướng giải quyết hiện tượng (vấn đề) đó.
 Làm thế nào để phát huy (nếu là vấn đề tốt) hoặc hạn chế (nếu là vấn đề chưa tích cực).
 + Vấn đề đó đã tác động đến bản thân mình như thế nào? Bản thân hiểu ra điều gì từ vấn đề được nêu, có ước muốn, quyết định gì...
- Bước 3: Dựa vào các ý đã tìm được ở bước 2 để lập dàn ý.
 + Nếu viết bài văn dù độ dài chỉ một trang giấy thi, nhưng bố cục cũng phải đầy đủ 3 phần : Mở bài, thân bài, kết bài.
- Bước 4: Hoàn chỉnh văn bản theo dàn ý đã lập bằng những câu văn có cảm xúc và lập luận chặt chẽ.
 * Lưu ý : 
- Kĩ năng viết + vốn sống phong phú + cảm xúc chân thành, đúng đắn = sức thuyết phục của bài văn viết. 
- Giáo viên cần hướng dẫn cho các em học và tham khảo theo chủ đề trong cuộc sống: Chủ đề tình cảm gia đình (tình mẹ, tình cha, tình anh em...); tình bạn; chủ đề môi trường; vấn đề dân số; tệ nạn xã hội...
 6, Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo.
 Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức, cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu được chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi được chất văn trong các em.
 Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua số phận.
 Bài mẫu.
 “Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói như thế và điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những con người không chịu thua số phận như thầy Nguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn Thước, Nguyễn Công Hùng...
 Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận”. Đó là những người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không đóng góp gì cho xã hội.
 Không mấy người Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Ký đã liệt cả hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước : bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế.
 Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diên-huyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân đạo.
 Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.
 Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực, khát vọng và ý chí của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội.
 Ví dụ 2 :
 Đề bài : Hãy viết về những điều em cảm nhận được từ câu chuyện dưới đây :
 Hoa hồng tặng mẹ 
 Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng ba trăm ki-lô-mét. Khi bước ra khỏi xe, anh thấy một bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè. Anh đến và hỏi nó sao lại khóc.
 - Cháu muốn mua một bông hoa hồng để tặng mẹ cháu - nó nức nở - nhưng cháu chỉ có bảy mươi lăm xu trong khi giá hoa hồng đến hai đô-la.
 Anh mỉm cười và nói với nó:
 - Đến đây, chú sẽ mua cho cháu.
 Anh liền mua hoa cho cô bé và đặt một bó hồng để gửi cho mẹ anh. Xong xuôi, anh hỏi cô bé có cần đi nhờ xe về nhà không. Nó vui mừng nhìn anh trả lời:
-Dạ, chú cho cháu đi nhờ đến nhà mẹ cháu.
Rồi nó chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có một phần mộ vừa mới đắp. Nó chỉ ngôi mộ và nói:
 - Đây là nhà của mẹ cháu.
 Nói xong, nó ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ.
 Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa huỷ bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó, anh đã lái một mạch ba trăm ki-lô-mét về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa.
 (Theo Quà tặng của cuộc sống, NXB Trẻ, 2006)
 Bài làm
 Cuộc sống cứ nhẹ nhàng trôi...cái nhẹ nhàng đó đôi lúc đưa ta vào mộng mị. Vì thế con người ta dễ hờ hững quên đi những giá trị đích thực của tình yêu và những mòn quà. Đọc Hoa hồng tặng mẹ, tôi bỗng giật mình vì những cái vô tình và vì cả những tình yêu nồng đượm mà những người con dành cho mẹ. 
 Mẹ là người đã sinh ra con, đã nuôi lớn con bằng tình yêu ngọt ngào nhất. Mẹ luôn hi sinh và dõi theo con : 
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”
 (Con cò-Chế Lan Viên)
 Người con trai trong câu chuyện Hoa hồng tặng mẹ ít ra cũng đã nhớ về mẹ, muốn dành tặng cho mẹ điều gì đấy khi anh đến tiệm đặt hoa gửi qua bưu điện cho mẹ. Có lẽ khoảng cách địa lí đã khiến anh vẫn phải tiếp tục đi trên con đường của bộn bề, lo toan. Dù vậy anh cũng là một con người biết quan tâm đến trẻ nhỏ. Khi thấy có bé gái đang đứng khóc bên vỉa hè, anh đã đến và hỏi lí do. Tự nhiên tôi cảm thấy có gì nhói đau... Tôi nhớ lại bàn tay khô héo, nhăn nheo của ông cụ ăn xin bên đường... Tôi nhớ lại ánh mắt ám ảnh của một cô bé bơ vơ, tôi nhớ lại những giọt nước mắt lăn dài đầy khẩn khoản và tuyệt vọng... Tất cả cứ từ từ hiện ra khiến lòng tôi se lại. Vậy đấy! Tôi đã từng tiếc khi bỏ qua nhiều vẻ đẹp kì vĩ nhưng có bao giờ tôi thấy nuối tiếc vì đã bỏ rơi ai, đã hờ hững bước qua những mảnh đời bất hạnh??? Tự nhiên thấy buồn... một hành động nhỏ của anh thanh niên với cô bé không quen biết bên đường đã làm tôi thức tỉnh. Phải quan tâm đến nhau nhiều hơn! “Cuộc sống có bao lâu mà hững hờ”. Thế rồi anh thật tốt bụng khi mua hoa giúp cô bé. Có lẽ anh đã cảm nhận được chút gì đó mong manh nhưng mảnh liệt trong bông hoa cô bé muốn mua tặng mẹ. Một tình yêu sâu đậm, một khát vọng nhỏ muốn đem dâng mẹ món quà đẹp nhất. Rồi anh còn đồng ý chở cô bé đến nhà mẹ để tặng hoa. Con người ta sống và quan tâm đến nhau chân thành quá! Nhưng đến lúc cô bé “chỉ đường cho anh lái xe đến một nghĩa trang, nơi có phần mộ vừa mới đắp”... Lòng tôi bỗng sao hụt hẫng. Cô bé ấy đâu còn được mẹ che chở “dưới bầu trời bình yên”, đâu còn sà vào lòng mẹ, cảm nhận hơi ấm, đâu còn được mẹ dạy cho cách cảm nhận những vẻ đẹp tinh tế tiềm ẩn, đâu còn được gọi lên tiếng “mẹ” thiêng liêng... Mất mẹ là một sự mất mát lớn. Dù thế cô bé vẫn “ân cần đặt nhánh hoa hồng lên mộ”. Có lẽ mẹ cô bé vẫn sống, ở một nơi xa nào đó, trong tiềm thức hay trong chính góc sâu trong tim cô bé. Tình yêu là vĩnh cửu! Giờ đây, tôi chỉ muốn về nhà, khóc oà trong vòng tay của mẹ và cảm nhận cái may mắn mà bấy lâu nay tôi đã bỏ quên... 
 “Tức thì anh quay lại tiệm bán hoa huỷ bỏ dịch vụ gửi hoa vừa rồi và mua một bó hồng thật đẹp. Suốt đêm đó anh đã lái một mạch ba trăm ki-lô-mét về nhà mẹ anh để trao tận tay bà bó hoa”. Một cái kết mở thật đẹp, đâu chỉ có trong truyện cổ tích. Anh thanh niên đã nhận ra giá trị của đoá hoa ấy là gì. Nó chỉ thật sự có ý nghĩa khi được tận tay trao cho người mình yêu thương. Cái ngọt ngào không chỉ ở những bông hồng tuyệt đẹp mà còn ở tình yêu và nụ cười mà anh và mẹ trao nhau.
 Tôi thật sự xúc động đọc Hoa hồng tặng mẹ. Bởi tôi lặng lẽ nhận ra chính mình trong câu chuyện. Những giọt nước mắt lặng thầm cứ tuôn rơi. Tôi khóc vì hối tiếc đã bỏ quên những giây phút đẹp... Tôi khóc vì chính cô bé đã mở cánh cửa trái tim cho anh thanh niên và cho tôi... tôi khóc vì tình yêu sao mà giản đơn quá... Tôi khóc chỉ vì để nhớ lại những giọt nước mắt ngày xưa mẹ đã lau khô cho tôi... 
 Sau khi nghe xong những bài văn mẫu tôi nhận thấy ở các em phần lớn đều có sự trầm tư suy nghĩ. Nhiều em không thể kìm chế thốt lên lời thán phục “hay, cảm động thật”. Điều đó chứng tỏ đã có sự tác động, khích lệ các em rất nhiều trong quá trình học và làm bài. 
 IV.Kiểm nghiệm: 
 Trên đây là những biện pháp mà bản thân tôi đã áp dụng trong năm học 2012-2013 để hướng dẫn cho học sinh làm bài Nghị luận xã hội. Sau khi áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy, chất lượng làm bài văn nghị luận xã hội của học sinh mà lớp tôi trực tiếp giảng dạy đã nâng cao rõ rệt. Giờ đây các em đã làm bài đúng hướng, bám sát vào thực tế đời sống cũng biết rút ra những bài học cho bản thân mình. Các em đã hiểu bản chất của kiểu văn này, không thấy khó và viết văn không bị khô khan như trước nữa. Biết lấy dẫn chứng từ thực tế cuộc sống đời thường để đưa vào bài ; nhiều bài đã có sức hút và lay động được người đọc. Đặc biệt các em đã biết phân biệt hai kiểu bài nghị luận xã hội: nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. 
 Cũng nhờ áp dụng đề tài này mà trong năm học 2013-2014 chất lượng của các bài thi về dạng bài này được nâng lên rõ rệt. Cụ thể là :
Lớp
Sĩ số
Số HS không biết cách làm bài (1->4điểm
Số HS biết cách làm bài ở mức trung bình-khá (5->7điểm)
Số HS làm bài tốt (8-9 điểm)
SL
%
SL
%
SL
%
9A
25
4
16
16
64
5
20
C, KẾT LUẬN-ĐỀ XUẤT
1, Kết luận:
 Để rèn luyện học sinh làm bài nghị luận xã hội tốt, tôi đã mạnh dạn đưa ra những phương pháp cụ thể như trên, với mong muốn giúp các em có một cái nhìn và cách sống toàn diện hơn. Không chỉ học để nắm tốt các bài giảng trên lớp mà các em còn biết vận dụng vào thực tế đời sống, biết chuyển lí thuyết thành việc làm, hành động cụ thể. Biết yêu quê hương, yêu con người, yêu cuộc sống; biết vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn; có tinh thần tự học để thành công trong cuộc sống và biết cách bảo vệ môi trường sống xung quanh... Phù hợp chung với xu thế xã hội và cũng là mục tiêu mà Đảng đã đề cập ở Nghị Quyết TW8 khoá XI : “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện đảm bảo thực hiện...đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học...” Trong đó phải thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học để làm cho văn học không xa rời thực tiễn cuộc sống. Theo xu hướng đổi mới chung của giáo dục để áp dụng vào từng môn học cụ thể, bản thân tôi nhận thấy kiểu bài nghị luận xã hội trong môn Ngữ văn là một vấn đề đáng được quan tâm. Vì nghị luận xã hội là một dạng văn còn mới và khó với học sinh THCS. Mặc dù tiết dạy cũng như số điểm trong bài thi không nhiều nhưng cũng là phần quan trọng, giúp học sinh có những hiểu biết về đời sống để vận dụng thi vào THPT rồi sau này thi tốt nghiệp, thi vào Đại học đều có kiểu nghị luận này. Theo tôi đó là cách tốt nhất để đánh giá lực học của học sinh. Buộc các em phải có cái nhìn khác về văn, về cuộc sống. Ngoài kiến thức về văn học, cách làm bài nghị luận văn học còn phải biết quan tâm, đến đời sống xung quanh, biết nhìn nhận sự việc, hiện tượng đời sống đến những đạo lí làm người.
 Kinh nghiệm mà tôi đã trình bày là rút ra từ thực tế hướng dẫn học sinh qua nhiều năm giảng dạy, và thu được kết quả khả quan trong các kì thi, từ kiểm định chất lượng đến thi chuyển cấp, nhất là thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh. Hy vọng nó sẽ gỡ bí cho một số học sinh hiện nay và gợi thêm một cách dạy cho giáo viên. Qua áp dụng đề tài này vào thực tế giảng dạy tôi đã thấy được việc rèn luyện kĩ năng làm bài nghị luận xã hội cho học sinh lớp 9, giáo viên cần phải :
- Căn thời gian phân chia nôi dung kiến thức theo chủ đề và hướng dẫn rèn luyện cho học sinh cách làm bài cụ thể, phù hợp với đối tượng học sinh.
- Khi dạy phải giúp học sinh nắm chắc dạng bài này, đồng thời cần hướng dẫn kĩ cho học sinh kĩ năng diễn đạt tốt các luận điểm, kĩ năng chuyển tiếp, liên kết các luận điểm, các phần, các đoạn trong bài, sử dụng các dẫn chứng phù hợp.
- Cần phân biệt được giữa nghị luận về sự việc, hiện tượng đời sống và nghị luận về vấn đề tư tưởng đạo lí.
- Cung cấp, đồng thời hướng dẫn cho học sinh tìm dẫn chứng cụ thể và tham khảo một số bài văn mẫu.
- Đặc biệt vào giai đoạn ôn luyện cho các kì thi, giáo viên nên có thao tác hệ thống bài tập và rèn luyện hai dạng cụ thể cho học sinh rèn thành thạo kĩ năng và vững kiến thức.
 Đề tài này chỉ là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng và có sự tham khảo thêm từ bên ngoài, nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những sai sót. Rất mong các đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để việc dạy học của tôi và tất cả chúng ta có hiệu quả tốt hơn.
2, Đề xuất:
 Hàng năm phòng nên giao chỉ tiêu về các trường ra hệ thống đề về kiểu bài nghị luận xã hội. Ngân hàng đề được phòng lưu trữ để các trường có thể tham khảo qua mạng.
 Xác nhận của Hiệu trưởng
Thiệu Hoá, ngày 02 tháng 3 năm 2014
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do mình viết, không sao chép của người khác.
 Người viết SKKN.
 Nguyễn Thị Chuyên. 
*TÀI LIỆU THAM KHẢO
 1. Sách giáo khoa Ngữ văn 9 - Tập 2.
2. Các dạng bài nghị luận xã hội.
Kiến thức chuẩn môn Ngữ văn THCS.
Phương pháp dạy học văn.
Tạp chí văn học tuổi trẻ.
Nâng cao Ngữ văn 9.
*MỤC LỤC.
Số thứ tự
Nội Dung
Trang
A.
 ĐẶT VẤN ĐỀ
1
 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
1
B.
 I. Cơ sở lí luận:
1
 II. Thực trạng vấn đề:
2
 III. Giải pháp và biện pháp thực hiện
3
 IV. Kiểm nghiệm
18
C.
 KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
19

File đính kèm:

  • docSKKN_NGU_VAN_9_Ren_ki_nang_lam_bai_nghi_luan_xa_hoi_cho_hoc_sinh_lop_9.doc
Sáng Kiến Liên Quan