Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5

 1.1. Cơ sở khoa học:

 - Căn cứ vào mục tiêu dạy học môn Toán nói chung và chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt của giải toán về chuyển động đều .

 - Giải toán về chuyển động đều là mảng kiến thức mới và tương đối khó đối với học sinh lớp 5. Dạy giải các bài toán chuyển động đều góp phần cung cấp vốn hiểu biết về cuộc sống cho học sinh tiểu học. Các kiến thức trong toán chuyển động đều rất gần gũi với thực tế hàng ngày như: tính quãng đường, thời gian, vận tốc . Khi học dạng toán này các em được củng cố nhiều kiến thức kỹ năng khác như: các đại lượng có quan hệ tỉ lệ; kỹ năng tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng ; kỹ năng tính toán

 1.2. Cơ sở thực tiễn:

 Trong chương trình môn toán lớp 5, chuyển động đều là dạng toán về các số đo đại lượng. Nó liên quan đến 3 đại lượng là quãng đường (độ dài), vận tốc và thời gian. Bài toán đặt ra là: Cho biết một số trong các yếu tố hay mối liên hệ nào đó trong chuyển động đều. Tìm các yếu tố còn lại.Vì vậy, mục đích của việc dạy giải toán chuyển động đều là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa đại lượng đã cho và đại lượng phải tìm. Mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc phép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán.

 Khi giải toán chuyển động đều, học sinh dễ mắc sai lầm do không nắm vững kiến thức cơ bản; tư duy chưa linh hoạt, đặc biệt vốn ngôn ngữ của các em còn rất hạn chế. Việc giải các bài toán về chuyển động đều không những đòi hỏi ở học sinh khả năng tư duy linh hoạt, sáng tạo, mà còn đòi hỏi ở các em khả năng ngôn ngữ phong phú nhằm để hiểu được nội dung bài toán và diễn đạt bài giải của mình một cách rõ ràng.

 

doc39 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 4222 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng giải toán về chuyển động đều cho học sinh lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iờ
 Đáp số: 36 km/giờ
 Ví dụ 2:  Một đoàn tàu hoả chạy ngang qua chỗ em đứng hết 10 giây và đi hết qua cái cầu dài 150 mét mất 25 giây. Hãy tìm chiều dài và vận tốc của đoàn tàu.
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- Phân tích đề: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? 
- Khi giải bài toán này phần lớn các em cho lời giải như sau :
 Vận tốc của đoàn tàu hoả là : 150 : 25 = 6 (m/giây)
 Chiều dài của đoàn tàu hoả là : 6 10 = 60 (m)
Bài giải trên đã không tính đến chiều dài đoàn tàu nên đã hiểu là đoàn tàu chạy được 150 m hết 25 giây. Với dạng toán này các em cần lưu ý đến chiều dài của đoàn tàu.
Bài giải
 Chiều dài đoàn tàu đúng bằng độ dài quãng đường đoàn tàu đi được trong 10 giây qua chỗ em đứng. Trong 25 giây đoàn tàu đi được quãng đường đúng bằng tổng chiều dài của đoàn tàu và chiều dài của cây cầu.
 Thời gian đoàn tàu chạy 150 m là :
 25 – 10 = 15 (giây)
 Vận tốc của đoàn tàu là :
 150 : 15 = 10 (m/giây)
 Chiều dài đoàn tàu là :
 10 10 = 100 (m)
 Đáp số: 100m và 10 m/giây
Bài tập ứng dụng:
1. Một tàu hỏa qua cầu với vận tốc 54 km/h. Từ lúc đầu tàu lên cầu đến lúc toa cuối cùng qua khỏi tàu mất hết 1 phút 15 giây. Hỏi cầu dài bao nhiêu mét, biết tàu hỏa dài 85 m. (đáp số: 1040 m)
2. Một người đứng ở chỗ chắn đường tàu hỏa nhìn thấy đoàn tàu hỏa chạy ngang qua hết 20 giây. Cũng với vận tốc đó đoàn tàu hỏa chạy qua một cây cầu dài 450m hết 65 giây. Tính chiều dài và vận tốc của đoàn tàu ? (Đáp số: 200 m và 10 m/giây) 
Biện pháp 4 : Tổ chức dạy trên lớp có sự lồng ghép, mở rộng kiến thức
 Các bài toán về chuyển động đều ở dạng không cơ bản bao gồm: các bài có liên quan đến các dạng toán điển hình như: Tìm hai số khi biết tổng và hiệu, tìm hai số khi biết tổng hoặc hiệu và tỉ số của hai số, toán về hai tỉ số, toán giải bằng phương pháp giả thiết tạm, ... Cụ thể như sau :
Loại 1 : Các bài toán về chuyển động đều liên quan đến dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số
 * Ví dụ 1: Một ô tô và một xe đạp khởi hành cùng một lúc: ô tô đi từ A, xe đạp đi từ B. Nếu ô tô và xe đạp đi ngược chiều nhau thì sẽ gặp nhau sau 2 giờ. Nếu ô tô và xe đạp đi cùng chiều nhau thì ô tô sẽ đuổi kịp sau 4 giờ. Biết rằng A cách B là 96km. Tính vận tốc của ô tô và xe đạp.
Phân tích đề:
- Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ? 
- Muốn tính vận tốc của mỗi xe ta cần tính gì ? (Tổng vận tốc của hai xe, Hiệu vận tốc của hai xe) 
Giải
 Tổng vận tốc của hai xe là:   96 : 2 = 48 (km/giờ)
 Hiệu vận tốc của hai xe là:   96 : 4 = 24 (km/giờ)
 Vận tốc xe đạp là:   (48 - 24) : 2 = 12 (km/giờ)
 Vận tốc xe ô tô là:                 48 – 12 = 36 (km/giờ)
 Đáp số:   Vận tốc xe đạp:  12 km/giờ.     
 Vận tốc ô tô:   36 km/giờ.
Bài tập ứng dụng : Hai xe cách nhau 50 km, xuát phát cùng một lúc. Nếu chạy cùng chiều thì sau 2 giờ 30 phút xe A đuổi kịp xe B, nếu chạy ngược chiều thì sau 30 phút hai xe gặp nhau. Tính vận tốc của mỗi xe. 
Loại 2: Bài toán về chuyển động đều liên quan đến dạng toán tìm hai số khi biết tổng (hiệu) và tỉ số của hai số
 * Ví dụ 2: Một ô tô khởi hành từ A lúc 7 giờ 30 phút với vận tốc 45 km/giờ, đến B ô tô nghỉ 1 giờ 46 phút. Sau đó ô tô trở về A lúc 12 giờ 40 phút với vận tốc 40 km/giờ. Tính quãng đường AB.
Phân tích đề:
- Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì ? 
- Để tìm được độ dài quãng đường AB ta cần tìm gì ? (Tìm thời gian đi hoặc về)
- Tìm thời gian đi hoặc về cần dựa vào điều kiện nào? (Vận tốc lúc đi và về)
- Trên cùng quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ như thế nào? (Tỉ lệ nghịch với nhau)
Giải
	Thời gian cả đi và về của ô tô trên quãng đường AB là :
	12 giờ 40 phút – 1 giờ 46 phút – 7 giờ 30 phút = 3 giờ 24 phút
	Đổi : 3 giờ 24 phút = 3, 4 giờ
	Tỉ số vận tốc đi và về của ô tô là :
	45 : 40 = 
	Trên cùng quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch với nhau. Do đó tỉ số thời gian đi và về của ô tô là : 
	Ta có sơ đồ:
	Thời gian đi là:
 3,4 : (8 + 9) 8 = 1,6 (giờ)
	 Quãng đường AB dài là :
	 45 1,6 = 72 (km)
 Đáp số: 72 km
Cách 2: Dùng phương pháp rút về đơn vị
 Với vận tốc lúc đi là 45 km/giờ thì cứ mỗi km ô tô đi hết thời gian là : 
	1 : 45 = (giờ)
 Với vận tốc lúc đi là 40 km/giờ thì cứ mỗi km ô tô đi hết thời gian là : 
	1 : 40 = (giờ)
Cứ mỗi km của quãng đường AB (cả đi lẫn về) ô tô đi hết thời gian là :
	 + = (giờ)
 Quãng đường AB là : 3,4 : = 72 (km)
Ví dụ 3: Một ca nô xuôi dòng một đoạn sông hết 1 giờ 10 phút và ngược dòng hết 1 giờ 30 phút. Biết vận tốc của dòng sông là 4 km/giờ. Hỏi chiều dài của đoạn sông là bao nhiêu km?
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- Phân tích đề: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? 
- Muốn tính chiều dài khúc sông ta cần tính được gì? (vận tốc xuôi dòng hoặc vận tốc ngược dòng)
- Để tính vận tốc xuôi dòng hoặc vận tốc ngược dòng ta cần dựa vào điều kiện nào của đề bài? (Tỉ số thời gian xuôi dòng và thời gian ngược dòng)
Giải
	1 giờ 10 phút = 70 phút
	1 giờ 30 phút = 90 phút
Tỉ số thời gian thuyền xuôi dòng và ngược dòng là:
	70 : 90 = 
 Vì thời gian và vận tốc đi trên cùng 1 quãng đường là hai đại lượng tỉ lệ nghịch nên tỉ số vận tốc lúc thuyền xuôi dòng và ngược dòng là .
Hiệu số vận tốc của thuyền lúc xuôi dòng và ngược dòng là:
	4 2 = 8 (km/giờ)
	Hiệu số phần bằng nhau: 9 – 7 = 2 (phần)
	Vận tốc lúc xuôi dòng là:
	8 : 2 9 = 36 (km/giờ)
	Chiều dài đoạn sông là:
	 = 42 (km) 
 Đáp số: 42 km 
Chú ý: Đối với học sinh kém hơn ta nên đổi thời gian 1 giờ 10 phút = giờ 
	1 giờ 30 phút = 1,5 giờ
Bài tập ứng dụng: 
1. Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 10 km/giờ. Khi đến B người đó liền trở về A bằng xe máy với vận tốc 30 km/giờ. Thời gian cả đi lẫn về là 8 giờ.
Tính quãng đường AB.
2. Quãng đường AB dài  32 km. Một người đi từ A đến B, trong 2 giờ đầu người đó đi bộ, trong 2 giờ sau người đó đi xe đạp để đến  B.  Biết rằng khi đi xe đạp có vận tốc gấp 3 lần vận tốc khi đi bộ. Tính vận tốc khi đi bộ và vận tốc khi đi xe đạp?
Loại 3: Bài toán về chuyển động tính vận tốc trung bình
Ví dụ 2: Hai bạn Toán và Văn xuất phát cùng một lúc từ A để đến B. Trong nửa thời gian đầu bạn Toán đi chơi với vận tốc 16 km/giờ và trong nửa thời gian sau đi với vận tốc 12 km/giờ. Còn bạn Văn trong nửa quãng đường đầu đi với vận tốc 12 km/giờ và trong nửa quãng đường sau đi với vận tốc 16 km/giờ. Hỏi bạn nào đến B trước ?  
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- Phân tích đề: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì? 
- Muốn biết bạn nào đến trước ta cần tính được gì? (tính vận tốc trung bình của mỗi bạn) 
-Tính được vận tốc trung bình của bạn Toán bằng cách nào? (Lấy (16 + 12) : 2)
- Tính được vận tốc trung bình của bạn Văn có tính như cách tính vận tốc trung bình của bạn Toán không? Vì sao? (không, bởi vì chỉ tính được vận tốc trung bình bằng cách tính trung bình cộng của 2 vận tốc đã cho chỉ  khi đi với 2 vận tốc đó có số đo thời gian bằng nhau. Còn 2 quãng đường bằng nhau thì không thể tính vận tốc trung bình như vậy được)
Giải
 Vận tốc trung bình của bạn Toán là :
 (16 + 12) : 2 = 14 (km/giờ)
 Bạn Văn đi 1 km trong nửa đầu quãng đường AB hết thời gian là :
 1 : 12 = (giờ)
 Bạn Văn đi 1 km trong nửa sau quãng đường AB hết thời gian là :
 1 : 16 = (giờ)
 Vận tốc trung bình của bạn Văn là : 
 2 : (+) = (km/giờ).
 Vì 14 km/giờ > (km/giờ) nên bạn Toán đến B trước.
* Lưu ý : Một số học sinh thường mắc sai lầm khi tính vận tốc trung bình của bạn Văn là tính trung bình cộng của hai số đo vận tốc khi thời gian xe chạy nửa đầu quãng đường và nửa sau quãng đường là khác nhau. 
 Với dạng toán này các em cần lưu ý khi tính vận tốc trung bình: 
+ Trường hợp đề bài cho biết một chuyển động đi với 2 vận tốc khác nhau, chỉ tính được vận tốc trung bình bằng cách tính trung bình cộng của 2 vận tốc đã cho chỉ  khi đi với 2 vận tốc đó có số đo thời gian bằng nhau. 
+ Trường hợp đề bài cho đi với 2 quãng đường bằng nhau thì không thể tính vận tốc trung bình bằng cách tính trung bình cộng của 2 vận tốc. 
 Ví dụ 2: Một người đi bộ từ A đến B rồi lại quay trở vê A. Lúc đi với vận tốc 6 km/giờ nhưng lúc về ngược gió nên chỉ đi với vận tốc 4 km/giờ. Tính vận tốc trung bình cả đi lẫn về của người ấy?
Giải
 Cách 1:
 1 km lúc đi hết 1 : 6 = (giờ)
 1 km lúc về hết 1 : 4 = (giờ)
 Người ấy đi 2 km (1 km lúc đi và 1 km lúc về) hết thời gian là:
 + = (giờ)
 Trung bình 1 km người ấy đi hết là:
 : 2 = (giờ)
 Vận tốc trung bình cả đi lẫn về là:
 1 : = 4,8 (km/giờ) 
 Cách 2:
 Giả sử nửa quãng đường AB dài 12 km, thì thời gian lúc đi là: 
 12 : 6 = 2 (giờ)
 Thời gian đi về sẽ là:    12 : 4 = 3 (giờ) 
 Tổng thời gian đi hết quãng đường là:    2 + 3 = 5 (giờ) 
 Tổng quãng đường cả đi và về là: 12 2 = 24 (km)
 Vận tốc trung bình người đó đi trên suốt quãng đường AB là:    
     24 : 5 = 4,8 km/giờ)
 Đáp số: 4,8 km/giờ.
 Lưu ý: 
+ Tính vận tốc trung bình cả đi lẫn về ta lấy quãng đường cả đi và về chia cho thời gian cả đi và về.
+ Có thể giả sử quãng đường cần đi của hai bạn là một số chia hết cho vận tốc của hai lần rồi tính, đối với đa số học sinh các này sẽ dễ hơn. 
Loại 4: Một số bài toán khác về chuyển động đều
 Ví dụ 1: Hai xe máy A và B xuất phát ở cùng một điểm và chạy cùng chiều trên một đường đua tròn có chu vi 1 km. Biết vận tốc của xe A là 22,5 km/giờ, vận tốc của xe B là 25 km/giờ. Sau khi xe A xuất phát 6 phút thì xe B mới bắt đầu chạy. Hỏi để đuổi kịp xe A thì xe B phải chạy trong bao nhiêu phút ?   
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- Phân tích đề toán: Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?
- Hướng dẫn để học sinh nhận ra: Đây là 2 chuyển động cùng chiều xuất phát cách nhau một thời gian nhưng trên đường kép kín chứ không phải trên đường thẳng. Cần chú ý hiệu quãng đường của hai xe khi xe 2 xuất phát.
Giải
   Đổi : 6 phút = 0,1 giờ.
 Khi xe B bắt đầu chạy thì xe A đã chạy được quãng đường dài là :
 22,5 0,1 = 2,25 (km)
 Đường đua tròn có chu vi 1 km là:
 2,25 km = 2 km + 0,25 km 
 Ta có 2 km + 0,25 km tức là 2 vòng + 0,25 km
Khi xe B xuất phát thì xe A đã đi được 2 vòng, khoảng cách giữa 2 xe chỉ là 0,25 km. 
 Hiệu vận tốc của xe B và xe A là :
 25 – 22,5 = 2,5 (km/giờ).
 Xe B đuổi kịp A sau một thời gian là :
 0,25 : 2,5 = 0,1 (giờ)
 0,1 giờ = 6 phút.
 Vậy sau 6 phút thì xe B đuổi kịp xe A.
* Lưu ý :  Với dạng toán này các em cần lưu ý đến quãng đường khép kín. Bởi vì đa số học sinh đã nhầm tưởng đường đua tròn như đường đua thẳng nên giải bài toán này như sau :
 Đổi : 6 phút = 0,1 giờ.
 Khoảng cách giữa xe A và xe B khi xe B bắt đầu xuất phát là :
 0,1 22,5 = 2,25 (km)
 Hiệu vận tốc của xe B so với xe A là : 25 – 22,5 = 2,5 (km/giờ)
 Xe B đuổi kịp xe A sau : 2,25 : 2,5 = 0,9 (giờ)
Ví dụ 2: Một ô tô đi quãng đường dài 225 km. Lúc đầu xe đi với vận tốc 60 km/giờ. Sau đó vì đường xấu và dốc nên vận tốc giảm xuống chỉ còn 35 km/giờ. Vì vậy, xe đi quãng đường đó hết 5giờ. Tính thời gian xe đi với vận tốc 60 km/giờ
Hướng dẫn HS phân tích đề toán :
- Xe đi với vận tốc bao nhiêu ? (lúc đầu 60 km/giờ, lúc sau 35 km/giờ)
- Tổng thời gian đi trên quãng đường ? (5 giờ)
- Để tính thời gian xe đi với vận tốc 60 km/giờ ta có thể sử dụng phương pháp nào? (Phươg pháp giả thiết tạm)
Giải
	Cách 1:
 Giả sử cả 5 giờ xe toàn đi với vận tốc 60 km/h thì đi được quãng đường là:
	60 5 = 300 (km)
 Như vậy xe đi vượt quãng đường đó là: 300 – 225 = 75 (km)
 Hiệu hai vận tốc là: 60 – 35 = 25 (km/giờ)
 Thời gian xe đi vận tốc 35 km/giờ là: 75 : 25 = 3 (giờ)
 Thời gian xe đi với vận tốc 60 km/giờ là: 5 – 3 = 2 (giờ)
 Đáp số : 2 giờ
 Cách 2: Giả sử cả 5 giờ xe toàn đi với vận tốc 35 km/h, tương tự trên
 * Tóm lại khi giải các bài toán về chuyển động cần hướng dẫn các em nhận dạng toán trên cơ sở đọc đề, phân tích đề : 
 - Xác định xem bài toán có mấy chuyển động.
 - Biểu diễn các chuyển động trên sơ đồ đoạn thẳng.
 - Xét xem các động tử đó chuyển động cùng chiều hay ngược chiều
 - Xác định thời điểm xuất phát : Nếu xuất phát cùng một lúc thì vận dụng công thức được rút ra ở trên để tính. Còn xuất phát ở hai thời điểm khác nhau thì chuyển về thời điểm xuất phát cùng một lúc để tính.
 - Vận dụng công thức để tính.
Biện pháp 5 : Coi trọng việc sử dụng phương pháp dạy học
 - Trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là phương pháp giáo dục. « Học mà chơi, chơi mà học », trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực, rèn luyện củng cố kiến thức đồng thời phát triển vốn kinh nghiệm được tích luỹ qua hoạt động chơi.
 Trò chơi học tập rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thúc đẩy hoạt động trí tuệ, nhờ
sử dụng trò chơi học tập mà quá trình dạy học trở thành một hoạt động vui và hấp dẫn hơn, cơ hội học tập đa dạng hơn. Thông qua các trò chơi, học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học vận dụng vào tình huống của trò chơi. Tổ chức trò chơi học tập để dạy môn toán nói chung và môn toán lớp 5 nói riêng, giáo viên phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian trong mỗi tiết học cụ thể để đưa ra các trò chơi cho phù hợp. Song muốn tổ chức được trò chơi trong dạy toán có hiệu quả cao thì đòi hỏi người giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu cầu sau: 
 + Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục
 + Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
 + Trò chơi phải phù hợp với tâm sinh lí học sinh lớp 5, phù hợp với khả năng
người hướng dẫn và cơ sở vật chất của nhà trường.
 + Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
 + Trò chơi phải gây được hứng thú đối với học sinh.
 Tâm lí học sinh thường sợ kiểm tra bài cũ. Do vậy tôi thường sử dụng trò chơi khởi động ở đầu giờ học. Như vậy học sinh không những hứng thú học tập mà thông qua trò chơi tôi có thể nắm bắt được khả năng nắm kiến thức cũ của học sinh và dẫn dắt các em tiếp thu kiến thức mới một cách nhẹ nhàng. 
 Ví dụ : Nói về công thức tính thời gian gặp nhau của chuyển động ngược chiều, cùng chiều, tôi cho trưởng ban văn nghệ của lớp lên khởi động đầu giờ. Trò chơi mang tên : »Hái hoa toán học »
 Luật chơi : Khi trưởng ban văn nghệ bắt nhịp bài hát, các bạn vừa hát, vừa chuyển bó hoa tới tay bạn ngồi bên cạnh. Khi kết thúc bài hát, bó hoa tới tay bạn nào, bạn đó sẽ hái hoa và khám phá điều bí mật bên trong bông hoa đó. Các câu hỏi chứa trong bông hoa như sau :
 Em hãy điền những từ ngữ thích hợp vào chỗ chấm của 2 câu thơ sau : 
 " Trên đường kẻ trước với người sau,
 Hai kẻ cùng chiều muốn gặp nhau,
 Vận tốc đôi bên tìm ............,
 ............. chia ......... khó chi đâu !"
 Hay :
 " Dẫu có xa xôi chẳng ngại chi,
 Tôi - Bạn hai kẻ ngược chiều đi,
 Vận tốc đôi bên tìm ...........,
 .......... chia ..........chẳng khó gì !"
 Ngoài ra việc sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp cho giáo viên tổ chức được các trò chơi hay bằng những hình ảnh sinh động và hấp dẫn như : Rung chuông vàng, chiếc nón kì diệu đã tạo cho học sinh sự hứng thú trong giờ học toán.
Biện pháp 6 : Tổ chức Câu lạc bộ Toán tuổi thơ
 Sau khi học xong mảng kiến thức trên, trong các tiết sinh hoạt câu lạc bộ, tôi thường tổ chức cuộc thi tài năng với chủ để : « Giải toán về chuyển động đều » để khơi dậy phong trào yêu thích học toán của học sinh. Thông qua Câu lạc bộ để học sinh trao đổi về những bài toán mà mình còn vướng mắc. Đồng thời qua đó góp phần củng cố kiến thức, phát huy tính sáng tạo và tìm tòi học hỏi của các em học sinh. 
 Có thể tổ chức câu lạc bộ dưới nhiều hình thức : tọa đàm trao đổi giải các bài toán khó, trò chơi thử trí thông minh, rung chuông vàng, ... Ví dụ  trò chơi mang tên « Em tìm hiểu toán học »: Chia lớp thành 4 đội, mỗi đội có 1 nhóm trưởng. Các thành viên trong đội đều chuẩn bị giấy nháp, bút. Các đội oẳn tù tì để giành quyền được chọn bài trước. Khi bài được mở ra, các thành viên trong đội thảo luận để tìm ra cách giải và làm bài ra giấy nháp sau đó viết kết quả ra giấy. Đội nào có đáp án trước thì rung chuông và nêu kết quả giải thích cách làm. Với mỗi bài làm đúng thì được 1 bông hoa, nếu sai thì quyền trả lời thuộc về các đội khác. Cứ tiếp tục như vậy, kết thúc câu lạc bộ, đội nào giành được nhiều hoa thì đội đó chiến thắng.
3.2. Kết quả đạt được sau khi thực hiện đề tài : 
 Sau khi nghiên cứu, đề tài đã được tổ chức dạy thực nghiệm trong 2 năm học 2016- 2017 và 2017 – 2018 . Trong quá trình áp dụng đề tài, tôi thấy:
 - Học sinh nắm chắc kiến thức giải toán về chuyển động đều; từ đó biết vận dụng vào từng dạng bài tập một cách dễ dàng. Giải được các bài tập khó mà không sợ.
 - Kĩ năng giải các bài toán được hình thành qua nhiều bài luyện tập như tìm hiểu bài, phân tích dữ kiện của đề bài, lập kế hoạch giải toán và trình bày bài 
giải nhanh, khoa học.
 - Khả năng lập luận, diễn đạt trong việc giải toán của các em chặt chẽ hơn.
Kết quả khảo sát lớp 5A được áp dụng đề tài và 5B không được áp dụng đề tài. Với kết quả như sau:
Lớp
Số bài
điểm 9,10
điểm 7,8
điểm 5,6
điếm dưới 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
5A
29
20
69
7
24
2
7
0
0
5B
27
0
0
2
7,4
10
37
15
55,6
 Căn cứ vào kết quả khảo sát trên cho thấy số học sinh đạt điểm khá giỏi của lớp 5A cao hơn nhiều so với lớp 5B. Điều đáng mừng là học sinh không còn sợ khi gặp giải toán về chuyển động đều, phong trào học tập của lớp sôi nổi hơn. 
3.3. Bài học kinh nghiệm:
 Qua thực tế áp dụng đề tài, chúng tôi đã rút ra được một số vấn đề sau: 
 Muốn truyền đạt cho học sinh nắm được kĩ năng giải toán về chuyển động đều nói riêng và việc giảng dạy môn toán nói chung, người giáo viên phải nghiên cứu, tham khảo nhiều tài liệu để phân ra các dạng bài cụ thể, tiêu biểu, đa dạng, hệ thống từ đơn giản đến phức tạp. Để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Giáo viên phải phối hợp nhiều phương pháp giảng dạy, đặc biệt coi trọng việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Thầy cô chỉ là người gợi mở, dẫn dắt để học sinh tự tìm ra cách giải. Dạy cho học sinh cách quan sát, phân tích các điều kiện của đề, tìm hiểu mối liên hệ giữa các dữ kiện, cách suy luận lôgic để bài giải chặt chẽ. 
PHẦN BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận : 
 Các bài toán về chuyển động đều là một dạng toán có nhiều ứng dụng trong thực tế. Thông qua việc nắm chắc kiến thức, giúp học sinh củng cố rất nhiều các kiến thức số học bản mà các em đã được trang bị trước đó như các dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số , tổng và tỉ số , hiệu và tỉ số... Được trang bị đầy đủ và hệ thống cách giải các bài toán về chuyển động đều sẽ giúp cho tư duy của học sinh thêm mềm dẻo, năng động và sáng tạo. Các em sẽ biết vận dụng các kiến thức một cách sáng tạo vào giải quyết các bài toán thực tế. Phát triển óc tư duy khoa học, dần hình thành cho học sinh các phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Biết phát hiện vấn đề trên cơ sở làm việc độc lập hay biết cách hợp tác trong nhóm hay trong tổ. 
 Đặc điểm của học sinh Tiểu học dễ nhớ song lại chóng quên, tư duy trực quan, do đó giáo viên cần cho học luyện tập nhiều, các bài cần có hệ thống, bài trước làm cơ sở hướng giải cho bài sau, các bài tập cần được vừa sức và được nâng cao dần. 
 Sau khi áp dụng đề tài, chúng tôi đã thu được kết quả khả quan. Song đề tài còn có không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được cấp trên, đồng nghiệp, bạn đọc góp ý, bổ sung để đề tài được hoàn thiện hơn! 
 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 2. Kiến nghị:
 Để dạy – học đạt kết quả cao, tôi xin có đề xuất ý kiến sau: 
 - Giáo viên cần tham khảo các tài liệu, nghiên cứu để tìm ra nhiều cách giải hay, nhanh với nhiều dạng toán khác trong chương trình học. 
 - Các nhà trường cần mở rộng chuyên đề về sáng kiến kinh nghiệm hay để giáo viên học tập. 
 - Cung cấp thêm tài liệu giúp giáo viên có tài liệu tham khảo qua đó nâng cao chất lượng dạy-học.
 Tôi xin cam đoan đề này này là do chính tôi đã nghiên cứu và trình bày, không sao chép của người khác. Nếu sai, tôi xin chịu trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 36 đề ôn luyện Toán 5 - PGS.TS.NGƯT Vũ Dương Thụy chủ biên
2. Bài tập cuối tuần Toán 5 – Đỗ Trung Hiệu- Trần Thị Kim Cương
3. Toán nâng cao lớp 5 – PGS.TS.NGƯT Vũ Dương Thụy chủ biên
4. Tuyển chọn 400 bài tập Toán 5- Tô Hoàng Phong - Huỳnh Minh Chiến
5. Violympic toán lớp 5
6. Những bài toán hay và khó lớp 5

File đính kèm:

  • docSkkn_Toan5_HoaPP.doc
Sáng Kiến Liên Quan