Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn chữ viết cho học sinh Lớp 1
Thực trạng chữ viết của học sinh lớp 1:
Qua khảo sát, theo dõi, kiểm tra học sinh của lớp do tôi chủ nhiệm, cho thấy tình hình chung như sau :
1.1 Thuận lợi :
- Các em là học sinh đầu cấp, ngoan ngoãn, chăm chỉ, có hướng phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường, tạo điều kiện đầy đủ về cơ sở vật chất, các phương tiện phục vụ dạy học. Phòng thư viện cung cấp đủ đồ dùng: như bộ chữ dạy tập viết chữ thường và chữ hoa, mỗi lớp đều có một bảng mẫu chữ viết theo quy định số 31/2002 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Được sự quan tâm của phụ huynh học sinh, các em có đủ sách vở, đồ dùng học tập theo yêu cầu của giáo viên.
- Bản thân là giáo viên đã có nhiều năm kinh nghiệm dạy học và rèn chữ viết, thực sự tâm huyết với phong trào “ Rèn chữ - rèn người”.
- Lớp tôi có 32 học sinh. Nhìn chung các em đã nắm được quy trình viết, biết cách viết chữ ghi âm tiếng việt, viết đúng mẫu, đúng cỡ chữ quy định.
- Hằng năm Sở giáo dục, Phòng và trường thường xuyên tổ chức Ngày Hội học sinh tiểu học Sở giáo dục đã chú trọng phần thi viết chữ đẹp nên đã động viên học sinh tham gia phong trào rèn luyện chữ viết.
1.2. Khó khăn :
- Lớp Một là lớp đầu cấp, các em còn nhỏ mới qua lớp mẫu giáo nên nhận
thức của các em không đều. Ở mẫu giáo, hoạt động chơi là chủ yếu, lên lớp Một, các em nhận được sự thay đổi hoàn toàn về môi trường cũng như hình thức học tập nên các em chưa quen, học sinh ở lứa tuổi này chưa có ý thức học tập, rèn chữ viết.
Ngày đầu tiên vào lớp Một các em chưa có những khái niệm về đường kẻ, dòng kẻ, độ cao, khoảng cách giữa các nét chữ và giữa những chữ cái, chữ ghi tiếng, cách viết các chữ thường, dấu thanh và chữ số.
- Bản thân mỗi em chưa phát huy được tính tự học, tự rèn ở trường cũng như ở nhà.
- Một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu, cỡ chữ (độ cao, độ rộng, khoảng cách giữa các con chữ và giữa các chữ thường quá hẹp hoặc quá rộng); ghi dấu thanh không đúng vị trí, các nét khuyết thường bị chập nét.
- Vẫn còn một số học sinh chưa nghiêm túc nghe giảng lúc đầu, các em chưa cẩn thận khi viết, các em muốn viết nhanh để hoàn thành bài viết nhằm ghi “ thành tích” với giáo viên và các bạn. Một số học sinh đồ dùng học tập còn thiếu , một số học sinh mắc bệnh về mắt.
- Sĩ số của lớp quá đông nên giáo viên khó hướng dẫn cụ thể đến từng em.
- Chữ viết chưa đáp ứng yêu cầu trực quan trong việc giảng dạy, chỉ thấy một số ít giáo viên viết chân phương đẹp mắt.
- Do sự phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ học sinh chưa cao, nên việc chuẩn bị sách vở, đồ dùng học tập của các em còn kém chất lượng .
- Một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến con em mình, chưa quan tâm nhắc nhở con em có ý thức rèn chữ.
ng kẻ mà nằm giữa dòng kẻ thứ nhất như chữ c, e, ê, x, s. Có chữ điểm dừng bút lại dừng giữa dòng kẻ thứ hai như chữ b, v. Có những chữ cái điểm dùng bút lại trùng với điểm đặt bút như các chữ o, ô, ơ. * Giáo viên hướng dẫn học sinh nắm kỹ cách rê bút, lia bút, cách viết liền mạch + Kỹ thuật rê bút: Rê bút là nhấc nhẹ đầu bút nhưng vẫn chạm vào mặt giấy theo đường nét viết trước hoặc tạo ra việt mờ để sau đó có nét viết khác đè lên. Từ rê được hiểu theo nghĩa di chuyển chậm đều đều, liên tục trên bề mặt của giấy, do vậy giữa đầu bút và mặt giấy không có khoảng cách). Như khi viết các chữ h, k, m, n, p. + Kỹ thuật lia bút: Để đảm bảo viết chữ đúng tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay viết nối các chứ cái với nhau. Lia bút là dịch chuyển đầu bút từ điểm dừng này sang điểm đặt bút khác, không chạm vào mặt giấy. Khi lia bút, ta phải nhấc bút lên để đưa nhanh sang điểm khác, tạo một khoảng cách nhất định giữa đầu bút và mặt giấy. Ví dụ: Khi viết l nối với o, ô => lo, lô....; h nối với ơ, a => hơ, ha ....; b nối với o, a => bo, ba...; n nối với ô, ơ .... => nô, nơ ; ...... Để chữ viết không bị rời rạc, đứt nét, giáo viên nhấn mạnh hơn chỗ nối nét, nhắc các em viết đều nét, liền mạch đúng kĩ thuật. * Kĩ thuật viết liền mạch: Viết liền mạch là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét đứng trước với điểm bắt đầu của nét đứng sau. Ví dụ: Khi viết từ a nối sang m => am ; từ e nối sang m => em; từ x nối sang u => xu. 2.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn HS chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập; tư thế ngồi và cách cầm bút; cách để vở và trình bày bài: a) Giáo viên hướng dẫn, giáo dục học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau: * Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau. Học sinh nên sử dụng bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn (thể hiện được 4 dòng) tạo điều kiện thuận lợi để viết phấn. Phấn trắng có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Bút dạ viết trên bảng có dòng kẻ, cầm vừa tay, đầu viết nhỏ, ra mực đều mới viết được dễ dàng. Khăn lau sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa không ảnh hưởng đến chữ viết. Để việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau: + Sử dụng bảng con hợp lí và đảm bảo vệ sinh. + Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách. + Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét. + Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng. * Vở tập viết, bút chì, bút mực: - Giáo viên hướng dẫn học sinh mua đồ dùng đạt yêu cầu nhằm nâng cao chất lượng chữ viết giúp chữ viết đẹp, mềm mại hơn. - Dạy học sinh thực hiện đúng quy định khi viết chữ. b) Giáo viên hướng dẫn học sinh tư thế ngồi và cách cầm bút, cách để vở và trình bày bài. * Hướng dẫn tư thế ngồi viết: Bởi vì tư thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu cúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi bị ảnh hưởng... nên giáo viên cần hướng dẫn các em tư thế ngồi viết đúng. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết, tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết. Ví dụ như câu hỏi: “Muốn viết đẹp các em phải ngồi thế nào ?”. Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế. - Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 - 30 cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái (tham khảo hình vẽ minh họa ở trang 2, vở Tập viết 1 – tập 1) * Hướng dẫn cách cầm bút: - Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái. - Ngược lại không úp quá nghiêng bàn tay về bên trái (nhìn từ trên xuống thấy cả 4 ngón tay: trỏ, giữa, áp út và út). Không để ngửa bàn tay quá, tạo nên trọng lượng tì xuống lưng của hai ngón tay út và áp út . - Cầm bút xuôi theo chiều ngồi. Góc độ bút đặt so với mặt giấy khoảng 45 độ. Tuyệt đối không cầm bút dựng đứng 90 độ. Đưa bút từ trái qua phải từ trên xuống dưới các nét đưa lên hoặc đưa sang ngang phải thật nhẹ tay, không ấn mạnh đầu bút vào mặt giấy. - Ở giai đoạn viết chì, cần chuẩn bị chu đáo cho đầu nét chì hơi nhọn đúng tầm. Nếu quá nhọn dẫn đến nét chữ quá mảnh, đôi khi còn chọc thủng giấy. Ngược lại, đầu nét chì quá “tù”, nét chữ quá to, chữ viết ra rất xấu. * Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở). Còn khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. * Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại. 2.3. Giải pháp 3: Rèn viết đúng trọng tâm các nhóm nét. * Luyện viết các nét cơ bản (Giai đoạn viết chữ nhỡ): Vào đầu năm học, tôi cung cấp ngay cho các em một số nét cơ bản như: - Nét sổ thẳng: Viết nét thẳng đứng cao hai li bắt đầu từ dòng kẻ ngang 3. ( | ) - Nét gạch ngang: Viết nét gạch ngang có độ rộng hai ô li bắt đầu từ dòng kẻ dọc 2. ( _ ) - Nét xiên phải: Đặt bút từ điểm giao nhau của dòng kẻ ngang 3 và kẻ dọc 2, kéo xuống góc phải của dòng kẻ ngang 1. ( ) - Nét xiên trái: Đặt bút từ điểm giao nhau của dòng kẻ ngang 3 và kẻ dọc 3, kéo xuống góc trái của dòng kẻ ngang 1. ( ) - Nét khuyết xuôi: Đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ hai lượn bút viết nét khuyết cao 5 li rộng 1 li. ( ) - Nét khuyết ngược: Đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ hai đưa bút xuống viết nét khuyết ngược 5 li rộng 1li. ( ) - Nét móc xuôi: Đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc xuôi 2 li. ( ) - Nét móc ngược: Đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ hai đưa bút xuống 2 li lên nét hất 1 li. ( ) - Nét móc hai đầu: Đặt bút từ dòng kẻ ngang thứ hai lượn bút lên viết nét móc, lượn bút xuống viết nét móc ngược phải, được nét móc hai đầu kết thúc hết li 1. ( ) - Nét móc hai đầu có thắt ở giữa: Phần trên nét thắt viết hơi giống chữ c, phần dưới nét móc viết gần giống nét móc hai đầu. ( ) - Nét cong trái: Đặt bút giữa li 2, lượn bút viết nét cong trái kết thúc nét cong giữa li 1. ( ) - Nét cong phải : Đặt bút giữa li thứ 2, lượn bút viết nét cong phải kết thúc nét cong giữa li 1. ( ) - Nét cong kín: Đặt bút giữa li 2 dưới dòng kẻ ngang thứ 3 lượn bút viết nét cong kín. ( o ) 2.4. Giải pháp 4: Sử dụng bảng chữ mẫu và chữ mẫu của giáo viên. Đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học. * Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo trên lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả những môn học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ. * Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên. Ngoài ra để chữ viết của giáo viên luôn đảm bảo làm đồ dùng trực quan sinh động đối với học sinh, giáo viên cần thường xuyên rèn luyện để viết đúng mẫu chữ. Đặc biệt, mỗi khi viết chữ lên bảng, viết mẫu vào vở học sinh hay viết lời phê vào vở học sinh, giáo viên cần nắn nót viết sao cho đẹp ; từ đó tạo cho học sinh sự thích thú đọc, ngắm chữ của giáo viên, muốn bắt chước theo chữ của thầy, cô và mong muốn cũng viết đẹp được như thầy cô . * Phân nhóm các nội dung cho học sinh rèn luyện : Căn cứ vào đặc điểm của từng chữ cái, căn cứ vào các nét đồng dạng giữa các chữ, căn cứ vào kích thước, quy trình viết, chúng ta có thể chia các nhóm chữ cho học sinh luyện tập như sau: * Phần 1 : Luyện viết chữ cái thường, chữ số . - Nhóm 1 : Nhóm những chữ có nét tương đồng là nét cong: o, ô, ơ, c, a, ă , â, d, đ, q. - Nhóm 2 : Nhóm các chữ có nét tương đồng là nét khuyết trên và nét khuyết dưới: h , k, l, b, g, y, th , nh , ph , ch , kh - Nhóm 3 : Nhóm các chữ có nét tương đồng là nét hất (sổ) và nét móc: i, t, u, ư, p, m, n . - Nhóm 4 : Nhóm các chữ có nét tương đồng là nét cong ( khó) , nét móc, nét có vòng xoắn: r, s, v, c, e, ê, x - Nhóm 5: Nhóm các chữ số: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. * Phần 2 : Luyện viết chữ cái hoa : - Nhóm 1 : A , Ă , Â , M , N . - Nhóm 2 : P , B , R , D , Đ . - Nhóm 3 : C , S , L , G , E , Ê. T . - Nhóm 4 : J , K , H , V . - Nhóm 5 : O , Ô , Ơ , Q - Nhóm 6 : X , V , U , Ư , Y . Sau khi đã phân nhóm, giáo viên cần giúp học sinh luyện viết đúng, đẹp và dứt điểm theo từng nhóm, không nên nóng vội. Tuỳ thuộc vào thời gian dự kiến rèn luyện mà giáo viên lựa chọn nội dung rèn luyện phù hợp. * Luyện viết theo từng bài học, theo chương trình: Ví dụ : Học bài âm m, n : Giáo viên hướng dẫn chi tiết cách viết con chữ m và con chữ n , viết mẫu chính xác và đẹp trên bảng lớp để học sinh viết theo, chỉnh sửa lỗi sai kịp thời để học sinh sửa lại. Một số lỗi sai học sinh thường mắc khi viết: + Thiếu nét + Sai mẫu chữ + Thừa nét + Sai cỡ chữ + Sai nét + Sai chính tả + Sai về khoảng cách + Sai trình bày + Sai dấu + Sai tốc độ Phân tích nguyên nhân và cách khắc phục: + Thiếu nét: Ví dụ: Khi viết vần uy các em hay bị viết thiếu một nét móc ngược của chữ y. Do thói quen của học sinh chưa viết hết nét chữ đã dừng lại, cần nhắc thường xuyên để tạo thói quen viết hết nét và dừng bút đúng điểm, đúng quy định. Giáo viên cần hướng dẫn cho những em viết thêm nét cho đủ nét ở ngay những chữ học sinh vừa viết thiếu nét. + Thừa nét: Ví dụ: Khi viết vần uy Các em thường viết thừa một nét móc ngược giữa u với y Nguyên nhân: Lỗi này do học sinh viết sai quy trình, điểm đặt bút ban đầu, nét đầu học sinh viết không đúng, dừng bút vượt quá điểm quy định. Cách khắc phục: Giáo viên phải hướng dẫn lại quy trình viết chữ cái đó. + Sai nét: - Nguyên nhân: Do học sinh cầm bút sai quy định, các ngón tay quá sát xuống ngòi bút, khi viết biên độ giao động của ngòi bút ngắn, đầu ngòi bút di chuyển không linh hoạt làm cho nét chữ bị cong vẹo gây sai nét. - Cách khắc phục: Nhắc học sinh cầm bút cao tay lên (từ đầu ngòi bút đến chỗ tay cầm khoảng 2,5 cm). Khi viết 3 ngón tay cử động co duỗi linh hoạt phối hợp với cử động của cổ tay, cánh tay. + Sai về khoảng cách: - Nguyên nhân: Lỗi này thường mắc với những học sinh viết hay nhấc bút, không viết liền mạch, đưa tay không đều. - Cách khắc phục: Cần giúp học sinh nắm kĩ thuật viết liền mạch, đưa đều tay. Quy định về khoảng cách giữa các con chữ trong một chữ là 2/3 đơn vị chữ (một con chữ o), khoảng cách giữa hai chữ trong một từ là một đơn vị chữ (một ô vuông đơn vị). Viết xong chữ mới đánh dấu chữ và dấu ghi thanh. + Dấu chữ, dấu thanh : Mỗi tiếng gồm ba bộ phận: Âm đầu, vần và thanh. Trong đó vần được chia thành ba bộ phận: Âm đệm, âm chính và âm cuối. - Ví dụ: Học sinh thường mắc lỗi đánh dấu quá to, quá cao, hoặc sát với con chữ không đúng vị trí, đánh dấu thanh không theo trình tự. - Nguyên nhân: Lỗi này thường do các em chưa quan sát kỹ chữ mẫu, chưa cẩn thận mặt khác còn do giáo viên không hướng dẫn và nhắc nhở các em thường xuyên. - Cách khắc phục: Để khắc phục lỗi này cần quy định lại cách đánh dấu chữ và dấu thanh nhỏ bằng 1/2 đơn vị chữ. Dấu thanh đánh vào âm chính của vần và không vượt quá đơn vị thứ hai. Nếu chữ có dấu mũ thì các dấu thanh nằm bên phải dấu mũ. Đánh dấu nhỏ thì những nét chính của chữ sẽ nổi rõ dấu nhỏ còn giúp trang vở không bị rối, bài viết sẽ thoáng hơn. + Khi âm chính chỉ gồm 1 nguyên âm thì dấu thanh đặt vào âm chính. Ví dụ: lá, mợ, mụt, thịt, búp, ... + Khi âm chính là một nguyên âm đôi (thể hiện bằng 2 chữ cái) thì chia làm 2 trường hợp: - Tiếng có âm cuối, dấu thanh được đặt ở yếu tố đứng sau của âm chính. Ví dụ: muống, miếng, phường, muộn, tiện, nước. - Tiếng không có âm cuối, dấu thanh được đặt ở yếu tố đứng trước của âm chính. Ví dụ: múa, mía, của, nứa, lịa, vựa. Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể tuỳ từng chữ có thể viết liền mạch phần nào còn phần nào phải nhấc bút nhưng với yêu cầu phải viết hết các chữ cái trong một chữ rồi mới đặt dấu thanh sau. Ví dụ: Khi viết chữ: thuồng Chữ “ thuồng ” ta viết liền mạch được ( thuong ) sau đó mới đặt dấu cho các chữ cái ô, dấu huyền và nét gạch ngang của chữ t . Sau khi phát hiện ra nguyên nhân viết chưa đúng cần giúp trẻ rút kinh nghiệm, tránh vấp phải sai sót lần sau. Khi ngồi viết thấy mỏi tay, mồ hôi tay ra nhiều, hoặc hoa mắt... cần phải nghỉ giải lao, chuyển sang các hoạt động cơ bắp như vươn vai, hít thở, tập vài động tác thể dục. 2.5. Giải pháp 5: Công tác kiểm tra, đánh giá thường xuyên. Trong quá trình rèn luyện chữ viết, giáo viên phải sát sao và kịp thời sửa lỗi cho học sinh. Theo Thông tư 22 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, giáo viên chú ý cách viết lời nhận xét. Đặc biệt là nhận xét thật cụ thể ở phân môn Tập viết, Chính tả và Tập làm văn để động viên, khích lệ tính thi đua của các em. Đồng thời chú trọng đánh giá thường xuyên bằng lời trong các tiết học. Luôn khơi gợi những tình cảm, những điểm mạnh của học sinh, nắm được sự tiến bộ của học sinh để khuyến khích, động viên các em. 2.6. Giải pháp 6: Bồi dưỡng cho học sinh lòng say mê và tinh thần quyết tâm rèn luyện viết chữ đẹp. Giáo viên cần tác động đến ý chí và nghị lực của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau : - Cho học sinh thấy được ích lợi của viết chữ đẹp: Làm đẹp cho mình, cho người, chính các em cũng thấy thích mắt ; mọi người ai cũng thích chữ đẹp, yêu quý, nể phục những người viết chữ đẹp. Đặc biệt chữ viết đẹp sẽ được ưu tiên điểm trong tất cả các bài thi nhất là bài viết chính tả và tập làm văn . - Giáo viên kể một số gương điển hình về rèn chữ viết như Cao Bá Quát, Nguyễn Ngọc Ký, Nguyễn Văn Siêu đồng thời sưu tầm, lưu trữ bài viết tốt của những em điển hình ở những năm trước, những bài đạt giải cao trong các hội thi để tác động đến các em và cho các em thấy được có được chữ viết đẹp là do ở sự rèn luyện . - Động viên khuyến khích học sinh kịp thời cho dù sự tiến bộ là không nhiều. - Cho học sinh xem những bài dự thi về “ Văn hay – Chữ tốt ” trên báo và tạp chí để qua đó gợi lên trong các em lòng say mê, ham thích luyện viết chữ đẹp. * Kết quả : - Qua áp dụng phổ biến đề tài của mình, tôi nhận thấy chất lượng của học sinh lớp tôi trong việc rèn luyện kĩ năng “Viết chữ đẹp” được nâng dần rõ rệt, chữ viết của các em đã đúng mẫu, đều nét, rõ ràng. Qua thời gian nghiên cứu và áp dụng, tôi đã thống kê được số liệu khả quan sau : Cuối năm học: 2017 – 2018 Tổng số học sinh Viết đúng chính tả Kĩ thuật viết Viết đúng cỡ chữ, hình thể Kĩ thuật nối nét, đúng khoảng cách Kĩ thuật ghi dấu thanh, dấu phụ Hình dáng hài hòa, mềm mại SL % SL % SL % SL % SL % 32 32 100 29 90.6.8 27 84.4 28 87.5 27 84.4 Cuối học kì 1 năm học: 2018 – 2019 Tổng số học sinh Viết đúng chính tả Kĩ thuật viết Viết đúng cỡ chữ, hình thể Kĩ thuật nối nét, đúng khoảng cách Kĩ thuật ghi dấu thanh, dấu phụ Hình dáng hài hòa, mềm mại SL % SL % SL % SL % SL % 32 32 100 30 93.8 28 87.5 29 90.6 28 87.5 III/ PHẦN KẾT LUẬN. 1. Ý nghĩa của đề tài: Qua quá trình nghiên cứu và vận dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp 1, bản thân tôi cũng đã rút ra được rằng muốn học sinh lớp 1 viết được chữ, viết đúng cỡ chữ và viết đẹp đòi hỏi người giáo viên cần phải: - Không ngừng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc rèn chữ viết đối với giáo viên, học sinh, phụ huynh. Tạo điều kiện phối hợp môi trường giáo dục giữa nhà trường và gia đình học sinh. - Giáo viên cần có đức tính kiên trì, chịu khó, hết lòng vì học sinh, yêu nghề, mến trẻ. - Giáo viên là tấm gương sáng về rèn luyện chữ viết cho học sinh noi theo. - Giáo viên phải gây được hứng thú, lòng say mê luyện chữ đẹp cho học sinh. - Tổ chức cho học sinh luyện tập có bài bản, từ dễ đến khó, đảm bảo đúng kĩ thuật, nâng cao dần về kỹ năng. - Giáo viên thường xuyên nhận xét sửa sai sót của các em thật triệt để trong tất cả các tiết học . - Giáo viên cần tuyên dương, khen ngợi sự tiến bộ của các em kịp thời, kể cho các em nghe những gương rèn chữ của những người đi trước được viết trong sách báo, truyện, những gương rèn chữ của học sinh năm trước, của học sinh trong trường, trong lớp. - Rèn chữ viết học sinh được rèn luyện một số phẩm chất như tính kiên trì, cẩn thận, khả năng thẩm mỹ.Viết chữ đẹp là nguyện vọng là lòng mong muốn của mỗi giáo viên, của mỗi phụ huynh học sinh . Vậy có thể thấy rằng chữ đẹp là một nét văn hóa truyền thống, thể hiện sự tài hoa của người cầm bút, là món ăn tinh thần không kém phần quan trọng trong cuộc sống của con người xưa và nay. - Rèn chữ viết là một quá trình lâu dài, đòi hỏi sự kiên trì bền bỉ vận dụng nhiều phương pháp để nâng cao chất lượng dạy và học. Bản thân mỗi giáo viên chúng ta là người hướng dẫn các em vươn tới tương lai thì trước hết chúng ta phải xác định rõ mục tiêu, vai trò của người thầy, vận dụng các phương pháp tích cực để nâng cao chất lượng ở tất cả các môn học. Chữ đẹp là một biểu hiện của nết người. Rèn luyện chữ viết đẹp là một trong những hoạt động học tập giúp các em phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách con người. Đó cũng là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của người giáo viên Tiểu học trong quá trình dạy học. Bồi dưỡng, rèn luyện cho học sinh viết đúng, viết đẹp, là một trong các hoạt động đẩy mạnh phong trào "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" và góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh. Đồng thời rèn luyện tính cẩn thận, kiên trì và nâng cao tính thẩm mỹ góp phần hình thành nhân cách cho học sinh trong sự nghiệp đổi mới, bồi dưỡng nhân tài cho nhà trường và xã hội góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. 2. Kiến nghị, đề xuất : 2.1. Đối với phụ huynh: + Cần mua sắm cho con em đầy đủ vở, bút đảm bảo chất lượng. + Có góc học tập cho con em đảm bảo quy cách, ánh sáng, hợp vệ sinh. + Luôn phối hợp với thầy cô để theo dõi chặt chẽ chữ viết của con em mình từ đó động viên kịp thời, giúp các em ngày càng tiến bộ. + Thường xuyên nhắc nhở, kiểm tra việc học tập và rèn chữ của con em mình. 2.2. Đối với giáo viên : + Không ngừng rèn luyện, học hỏi kinh nghiệm về rèn chữ viết để đưa chất lượng chữ viết ngày càng đi lên. + Phải kiên trì rèn luyện chữ viết cho học sinh. + Động viên, khích lệ học sinh kịp thời. 2.3. Đối với nhà trường : + Mua sắm các loại đồ dùng, tài liệu tham khảo có liên quan đến việc rèn luyện chữ viết. + Có không gian trưng bày những bài viết đẹp để học sinh tham khảo, học hỏi. + Thường xuyên tổ chức Hội thi viết chữ đẹp cho giáo viên và học sinh nhằm giao lưu học hỏi kinh nghiệm và đánh giá phong trào "Giữ vở sạch - Viết chữ đẹp" trong toàn trường. Trên đây là phần trình bày những kinh nghiệm của bản thân tôi qua nhiều năm công tác ở Trường tiểu học. Trong thời gian có hạn và sự hạn chế của cá nhân, nội dung trình bày trên không tránh khỏi có nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các cấp lãnh đạo và các quý thầy cô . Tôi xin chân thành cảm ơn! Quảng Bình, ngày 3 tháng 03 năm 2019 XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ren_chu_viet_cho_hoc.doc