Chuyên đề Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1 - Phần âm môn Tiếng Việt

Thực trạng:

a, Về phía học sinh:

Hệ thống phát âm của một số em chưa hoàn chỉnh.

+ Cách phát âm của một số em theo thói quen (nghe người lớn phát âm và thực hiện lại).

+ Lỗi về phát âm: sai phụ âm đầu tr/ch; s/x; p/b, sai do phương ngữ “âm tr đọc thành ch”, “âm s đọc thành x”, “âm p” đọc là b”.

* Ví dụ: “trà mi” đọc thành “chà mi”; “cá trê” đọc thành “cá chê”; “số ghế” đọc thành “ xố ghế”; “sẻ” đọc thành “xẻ”; “pô – li – me” đọc thành “bô – li – me”; “pa – nô” đọc thành “ ba – nô”

+ Lỗi về dấu thanh “thanh sắc và thanh ngã” .

* Ví dụ: “khe khẽ” đọc thành “khe khé”; “ngã ba” đọc thành “ngá ba”; “ngẫm nghĩ” đọc thành “ngấm nghí”,

+ Lỗi âm “kh” thành “h”. VD: quả khế thành quả hế.

 Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép âm thành vần, thành tiếng. Hết 6 tuần đầu học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn, sáu vần đối với học sinh lớp một là quá nhiều.

b, Về phía giáo viên:

Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, bám sát thiết kế dạy học, tăng cường rèn kĩ năng đọc cho học sinh, song việc kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt, khai thác, phát triển vốn âm, từ, câu của học sinh còn hạn chế.

 

doc7 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 738 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Chuyên đề Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 1 - Phần âm môn Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ I:
“ Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 - phần âm 
môn Tiếng Việt CNGD”
I. Lí do chọn chuyên đề:
Bước vào lớp Một các em còn bỡ ngỡ, chưa làm quen được với việc học ở Tiểu học.
Một số em còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp. Một số em còn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày. Vốn từ của các em còn quá ít ỏi, việc hiểu nghĩa của từ còn hạn chế. Kĩ năng đọc, nói, viết, nghe chưa thực sự tốt. 
Chính vì những lí do nêu trên mà tổ tôi đã chọn chuyên đề :“ Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh lớp 1 - phần âm môn Tiếng Việt CNGD”
II. Mục đích của chuyên đề:
Góp phần giúp HS lớp 1 đọc đúng, phát âm chuẩn các nguyên âm và phụ âm. 
 Giúp giáo viên có được kiến thức, phương pháp dạy học phần âm cho HS một cách chắc chắn.
III. Nội dung chuyên đề 
1. Thực trạng:	
a, Về phía học sinh:
Hệ thống phát âm của một số em chưa hoàn chỉnh.
+ Cách phát âm của một số em theo thói quen (nghe người lớn phát âm và thực hiện lại).
+ Lỗi về phát âm: sai phụ âm đầu tr/ch; s/x; p/b, sai do phương ngữ “âm tr đọc thành ch”, “âm s đọc thành x”, “âm p” đọc là b”.
* Ví dụ: “trà mi” đọc thành “chà mi”; “cá trê” đọc thành “cá chê”; “số ghế” đọc thành “ xố ghế”; “sẻ” đọc thành “xẻ”; “pô – li – me” đọc thành “bô – li – me”; “pa – nô” đọc thành “ ba – nô”
+ Lỗi về dấu thanh “thanh sắc và thanh ngã” .
* Ví dụ: “khe khẽ” đọc thành “khe khé”; “ngã ba” đọc thành “ngá ba”; “ngẫm nghĩ” đọc thành “ngấm nghí”,
+ Lỗi âm “kh” thành “h”. VD: quả khế thành quả hế.
 Lượng kiến thức nặng so với học sinh lớp 1 (VD: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa biết chữ cái nhưng đã phải viết như dạng chính tả. Trước đây, học hết 8 tuần, các em thuộc bảng chữ cái và có thể ghép âm thành vần, thành tiếng. Hết 6 tuần đầu học sinh đã phải đọc những bài dài tới 30 tiếng, hay có bài học bốn, sáu vần đối với học sinh lớp một là quá nhiều. 
b, Về phía giáo viên: 
Giáo viên thực hiện đầy đủ các yêu cầu của tiết dạy, bám sát thiết kế dạy học, tăng cường rèn kĩ năng đọc cho học sinh, song việc kết hợp các phương pháp dạy học linh hoạt, khai thác, phát triển vốn âm, từ, câu của học sinh còn hạn chế. 
II. Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc phần âm cho học sinh lớp 1. 
Từ những thực trạng trên và qua thực tế nghiên cứu trong quá trình giảng dạy hằng ngày, GV tổ 1-2-3 đã đưa ra một biện pháp khả thi nhất nhằm mục đích để rèn đọc cho học sinh lớp 1 đạt hiệu quả cao, cụ thể:
1. Hình thành các kĩ năng học tập 
- Hình thành các kĩ năng đọc ở 4 mức độ: to, nhỏ, nhẩm thầm và sử dụng thường xuyên.
- Kĩ năng đọc cá nhân, nhóm, đồng thanh.
- Hướng dẫn học sinh sử dụng thành thạo bộ đồ dùng Tiếng Việt.
* Ví dụ: Ở bài học “Tách lời ra từng tiếng” giáo viên đưa ra câu thơ”:
 Tháp Mười đẹp nhất bông sen
 Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Để giúp học sinh đọc được và học thuộc câu thơ trên, mặc dù các em chưa biết chữ cái. Giáo viên dùng các vật liệu như: mô hình hình tròn, hình vuông, nam châm, nắp bia, viên sỏi, mỗi một hình vuông, hình tròn, nam châm, nắp bia, viên sỏi thay thế cho một tiếng trong câu thơ, sau đó cho học sinh luyện đọc theo cá nhân, nhóm, lớp. Sau khi học sinh đọc thuộc câu thơ, học sinh tự lấy được hình vuông trong bộ đồ dùng Tiếng Việt để xếp hai câu thơ và đếm xem có bao nhiêu hình vuông là bấy nhiêu tiếng.
Khi học sinh đã nắm được các kí hiệu giáo viên chỉ giao việc 1 lần, câu lệnh hoặc kí hiệu phải rõ ràng đảm bảo 100% học sinh nghe và hiểu. Khi giao việc giáo viên đứng vị trí thích hợp để quan sát tất cả học sinh trong quá trình thực hiện.
Việc rèn đọc cho học sinh không thể thiếu hướng dẫn tư thế cầm sách: khi đứng đọc (tay trái cầm giữa thân quyển sách theo chiều dọc, tay phải giữ ở góc phải dưới của quyển sách, mắt cách quyển sách 25cm đến 30 cm; khi ngồi đọc sách để trên mặt bàn, tay trái giữ mép bên trái của sách, ngón trỏ tay phải chỉ dưới chân chữ theo từng tiếng cô giáo hoặc bạn đọc). Khi đọc phải to, rõ ràng, đủ cho cả lớp nghe.
2. Hướng dẫn chuẩn bị trước ở nhà.
- Khi học xong bài nào, GV cần cho HS về nhà đọc lại bài đó và giao cho HS đọc trước bài hôm sau. 
	VD: khi học xong bài âm /c/, GV yêu cầu học sinh về nhà đọc lại bài âm /c/ và đọc trước bài âm /ch/.
3. Hướng dẫn cách phát âm, đánh vần, phân tích vần
 	Đối với học sinh lớp 1 kĩ năng đọc đúng là quan trọng nhất. Đây là biện pháp quan trọng hàng đầu, đòi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh nghiệm kĩ năng hướng dẫn tốt. Khi hướng dẫn học sinh phát âm, cần dùng lời nói mạch lạc, đơn giản để học sinh dễ hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn, giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (môi - răng - lưỡi, đường dẫn hơi, điểm thoát hơi) vì thế những học sinh thường gặp khó khăn khi phát âm một số âm như: tr/ch; s /x; n/ng; d /gi; b/p đã nắm và phát âm chính xác.
	 Khi dạy kĩ năng đọc chúng ta phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp và phải dạy theo nhóm trình độ của học sinh. Hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm chuẩn. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt thì giáo viên dành cho luyện đọc nâng cao (đối với HS năng khiếu).
	 Giáo viên phải kiên trì liên tục và có hệ thống. Thông thường các em đọc sai rất ngại đọc vì sợ các bạn chê cười, chế nhạo,... Giáo viên phải giải toả tâm lí cho học sinh bằng những lời khen, lời động viên dù nhỏ. Đồng thời phải giải thích cho các em cùng hiểu, để cùng thông cảm, chia sẻ, giúp đỡ bạn đọc tốt hơn. 
 Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo. Chỉ phát âm một lần, nhưng phải rõ ràng, chính xác. Đối với các em còn chậm, cần quan tâm chú trọng đến các em nhiều hơn. Nếu các em phát âm sai, giáo viên phải phát âm lại 2 - 3 lần, để giúp các em sửa chữa và nắm được, nắm chắc các âm đó.
	Dạy cho học sinh phát âm đúng, tôi không quên rèn kĩ năng nghe. Ở đây giọng đọc của giáo viên rất quan trọng, giữa nghe và phát âm có mối quan hệ rất chặt chẽ cho nên rèn luyện kĩ năng nghe cũng hỗ trợ rất nhiều cho kĩ năng đọc.
	Lỗi học sinh còn phát âm sai do 2 nguyên nhân: 
	+ Nguyên nhân chủ quan: như nói lắp, nói ngắn lưỡi, khó đọc do tật bẩm sinh.
 Ví dụ: s/x sẻ/xẻ; sả/xả; sò/xò; sơ sơ/xơ xơ;...
	+ Nguyên nhân khách quan: do cách phát âm của phương ngữ địa phương tạo cho các em thói quen nghe và nói từ khi nhớ.
 	Để sửa lỗi phát âm sai tôi dùng biện pháp giảng giải trên cơ sở lí thuyết ngữ âm và ý nghĩa từ.
	Hướng dẫn học sinh luyện đọc lại từ ngữ phát âm sai ngay lúc đó nhiều lần.
 + Khi học sinh phát âm sai, giáo viên phát âm lại và yêu cầu những em sai thực hiện theo yêu cầu.
 + Có thể gọi học sinh đọc tốt hướng dẫn bạn.
+ Cho HS luyện đọc theo nhóm bàn để HS tự kiểm tra và tự sửa sai cho nhau,
 - Hướng dẫn học sinh nắm được đó là nguyên âm hay phụ âm (thông qua việc phát âm), để đưa tiếng vào mô hình, phân tích tiếng đúng. Tránh nhầm lẫn khi đưa tiếng vào mô hình (phần đầu là phụ âm, phần vần bao giờ cũng là nguyên âm).
*Ví dụ: tiếng /da/
d
a
               Phụ âm   Nguyên âm
- Muốn học sinh đọc được thì việc ghi nhớ các âm đã học rất quan trọng. Phần lớn các em chỉ thuộc các âm đơn như: a, b, c, ..., còn việc ghi nhớ các âm kép rất khó với các em. Với các âm kép, GV cần dùng mẹo để giúp các em ghi nhớ.
	VD: khi học bài âm ch, để giúp các em thuộc được âm /ch/, GV dùng hình ảnh con vật gắn với âm / ch/, các em vùa thích vừa thuộc được âm /ch/.
- Khi HS phát âm đúng các âm trong từng bài học, giáo viên hướng dẫn học sinh ghi nhớ luôn các âm đó bằng cách cho học sinh luyện đọc đi đọc lại nhiều lần
âm đang học và các âm đã học ở những bài trước.
- GV phải hình thành kĩ năng đọc cho HS ngay từ phần âm. Trong từng bài học, GV phải thường xuyên cho học sinh làm quen đánh vần rồi đọc trơn thành tiếng. Khi học đến âm nào tôi thường cho HS tìm tiếng mới có chứa âm vừa học rồi ghi trên bảng. Tôi cho HS đọc lại các tiếng mà các em vừa tìm. 
- Trong phần đọc sách giáo khoa, GV chép lại trên bảng và cho học sinh luyện đọc. Ở phần này GV chủ yếu cho luyện đọc cá nhân theo hình thức nối tiếp. Để tránh học sinh đọc thuộc vẹt do được đọc trước ở nhà nên GV cần chỉ xuôi, chỉ ngược, không theo thứ tự. Với cách chỉ như vậy, HS bắt buộc phải tự đánh vần mà đọc.
	4. Giáo viên làm mẫu, đọc mẫu phải chuẩn xác
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em luôn coi thầy, cô giáo của mình là thần tượng, là chuẩn mực. Đặc điểm tâm lí của học sinh ở lứa tuổi này là hay bắt chước, hay làm theo. Các em thích mình giống như thầy cô và người lớn. Các em thường “bắt chước” cô từ cách ăn mặc, đi đứng, cho đến lời nói, cử chỉ, chữ viết, Học sinh lớp 1 hằng ngày đến lớp chủ yếu được nghe giọng nói của giáo viên. Vì vậy giáo viên cho học sinh nghe đúng, nghe hay thì việc học sinh đọc sai, viết sai từng bước được khắc phục. Muốn học sinh phát âm tốt thì giáo viên phải phát âm chuẩn xác. 
Tuy vậy, nếu sử dụng phương pháp làm mẫu không khéo léo, sẽ dẫn đến tình trạng “lạm dụng”, tiết học sẽ trở nên nhàm chán và không phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vì thế, giáo viên chỉ nên sử dụng phương pháp này khi thấy thật cần thiết, đó là khi các em học sinh dù qua hướng dẫn, không thể tự mình phát âm đúng. 
Khi vận dụng phương pháp đọc mẫu cho học sinh, giáo viên cần rèn luyện cho các em biết kết hợp cả kĩ năng nghe và nhìn (nghe tiếng phát âm và quan sát môi, miệng, lưỡi của cô). Như thế học sinh sẽ phát âm đúng và dễ dàng hơn. Khi đọc mẫu, không đơn giản chỉ là phát ra âm tiết mà cần biết phối hợp với thuật “hình môi” nhằm hướng dẫn các em phát âm chuẩn xác hơn. Nếu học sinh chỉ nghe mà không nhìn miệng cô đọc thì việc phát âm sẽ không đạt hiệu quả cao, vì trong môn Tiếng Việt 1- CGD việc quan sát môi khi giáo viên phát âm là rất quan trọng.
Hướng dẫn học sinh xác định nguyên âm và phụ âm:
 + Khi phát âm các nguyên âm: phải há miệng, luồng hơi đi ra tự do, có thể kéo dài.
+ Khi phát âm các phụ âm: phải ngậm miệng lại, bật môi cho luồng hơi thoát ra, luồng hơi đi ra bị cản, không thể kéo dài được. Bằng cách phát âm đó học sinh dễ nhận biết nguyên âm, phụ âm. Nhìn miệng bạn phát âm để nhận biết và nhận xét.
Học sinh sai lẫn dấu thanh (thanh nặng, thanh sắc, thanh huyền, thanh hỏi, thanh ngã).
+ Trong phần luyện đọc hằng ngày, GV ghi tất cả các dấu thanh lên bảng cho học sinh đọc. GV chỉ cho hs đọc theo thứ tự và không theo thứ tự. Dần dần các em sẽ thuộc dấu thanh.
Học ngọng dấu thanh (thanh sắc, thanh ngã).
+ Để rèn HS không ngọng hai dấu thanh này, tôi cho HS ghép nguyên âm với dấu thanh.
VD: á, ó, í, ố, é, ế,, hoặc ã, ẽ, ỗ, ũ, và chỉ đọc hai dấu thanh này.
+ Đưa tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt: 
Ví dụ: đổ/đỗ hướng dẫn học sinh phân biệt ngả/ngã hướng dẫn học sinh đọc để phân biệt “ngả ba / ba ngã”.
Không những dùng lời nói để hướng dẫn học sinh rèn kĩ năng đọc, giáo viên còn sử dụng những kí hiệu (động tác tay, vẽ kí hiệu ở phía trên góc trái của bảng lớp, ). Khi giáo viên đưa ra kí hiệu học sinh thực hiện, như vậy tạo cho học sinh kĩ năng quan sát, tập trung trong giờ học thành thói quen thường xuyên. 
Ví dụ: 
+ Yêu cầu học sinh đọc theo bốn mức độ (to, nhỏ, nhẩm, thầm) giáo viên không dùng lời nói chỉ gắn nam châm vào kí hiệu để tất cả học sinh thực hiện. (Giáo viên vẽ kí hiệu các ô vuông thể hiện các mức độ):
 To nhỏ nhẩm thầm
 + Yêu cầu đọc đồng thanh (Giáo viên thực hiện động tác đưa hai tay từ trong ngực ra phía trước).
+ Yêu cầu đọc nhóm đôi (giáo viên chỉ dùng nam châm gắn vào kí hiệu N ở bảng lớp).
 5. Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh 
Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được lòng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất. Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải điều chỉnh nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những lời khen. 
Ví dụ: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé”; “Em đã đọc tốt hơn rồi, em cần cố gắng thêm tí nữa”; Được động viên như vậy, học sinh sẽ không nản lòng vì nghĩ rằng mình sẽ làm được, sắp làm được, bạn làm được thì mình cũng sẽ làm đượcTừ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn. Trong số những học sinh phát âm sai, có một phần nhỏ học sinh do lười biếng, không muốn rèn luyện mình nên chỉ phát âm một cách nhanh chóng, đại khái cho xong, dần dần thành quen nên phát âm không chuẩn xác. Với những học sinh này, giáo viên phải thật nghiêm khắc.
	6. Khuyến khích học sinh phát hiện và điều chỉnh lẫn nhau 
Hoạt động dạy - học luôn luôn được thực hiện trong mối quan hệ tương tác: giáo viên với học sinh, học sinh với giáo viên, học sinh với học sinh. Một tiết học diễn ra nếu thiếu sự tương tác giữa học sinh với học sinh thì tiết học sẽ trở nên đơn điệu, không phát huy được tích cực, chủ động của học sinh, đồng thời bầu không khí lớp học sẽ thiếu sự nhẹ nhàng, tự nhiên, người giáo viên cũng không thể hiện rõ được vai trò là người chỉ dẫn để giúp các em tự tìm tòi, lĩnh hội kiến thức.
Trong quá trình rèn kĩ năng phát âm cho học sinh, giáo viên luôn đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ tương tác giữa học sinh với học sinh. Giáo viên cần chú trọng việc rèn đọc cho các em có kĩ năng nghe - nhận xét - sửa sai giúp bạn và tự sửa sai cho mình. Các em sử dụng các kĩ năng ấy thường xuyên trong các tiết học trở thành một thói quen, tạo nền nếp học tập tốt. Qua quá trình nghe để nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh, sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến, góp phần hình thành nhân cách. Thực hiện thường xuyên như thế sẽ tạo được bầu không khí học tập nhẹ nhàng, thân thiện, đảm bảo được mục tiêu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng đổi mới.
Ví dụ: Khi dạy bài 2: Âm (TV1 - CGD - T1; Tr19) yêu cầu học sinh thực hiện nhóm đôi phát âm âm a và b, từ đó hai em cùng quan sát nhau cách phát âm nhận biết hình môi, luồng hơi để phân biệt phụ âm và nguyên âm. Nói cho nhau
nghe cách phát âm hoặc học sinh có thể sửa sai cho bạn.
Trong quá trình dạy học tôi còn tổ chức thi đọc thông qua một số trò chơi “Thả thơ, chèo thuyền, bắn tên,) nhằm rèn tính mạnh dạn, tự lập, sáng tạo cho các em. Học sinh biết chia sẻ và sửa sai cho bạn khi nghe bạn đọc. Qua các trò chơi nhằm gây hứng thú, kích thích, khơi dậy niềm say mê học tập của các em. Các em chậm tiến học tập cách đọc của các bạn, xem bạn là tấm gương để mình phấn đấu vươn lên.
	7. Luyện đọc đúng.
 Từ chỗ đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn tiến tới cho học sinh đọc được mức độ cao hơn (ngắt, nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy).
 Hướng dẫn học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc từng câu chứ không đọc từng con chữ, từng chữ rời rạc.
 Tôi chú trọng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn cho từng học sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để nhiều học sinh được tham gia và tham gia nhiều lượt đọc trong một tiết học. Xen kẽ đọc đồng thanh để tạo không khí lôi cuốn học sinh chậm tiến, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt (tùy theo bài để chọn cách đọc).
 8. Quan tâm rèn luyện cho học sinh ở mọi nơi, mọi lúc 
 Để giúp học sinh phát âm chuẩn, giáo viên không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả trong các tiết học khác, trong hoạt động tập thể Bởi vì những lúc vui chơi là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em thường nói tiếng địa phương, nói lóng,... 
 Vì thế bản thân tôi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất cứ nơi đâu. 
	9. Tuyên dương, khuyến khích học sinh
 Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết hợp với biện pháp tuyên dương, khuyến khích các em, từ đó các em rất hứng thú, vui vẻ, tạo được không khí thoải mái, là động lực cho các em tiếp tục rèn luyện, sửa chữa các lỗi mà các em mắc phải. Khi các em có tiến bộ, dù nhỏ nhất tôi cũng dùng những lời động viện để khuyến khích các em (VD: “Em đã phát âm đúng, cố lên em nhé”, “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cô khen em”...),. Không chỉ khen những em đã biết sửa lỗi mà tôi còn khen cả những em đã giúp bạn phát âm đúng, để từ đó các em có động lực giúp bạn hơn, hứng thú với công việc đó hơn. 
	10. Kết hợp với phụ huynh rèn luyện phát âm cho học sinh
 Việc phối hợp giữa gia đình và nhà trường đều tạo môi trường phát âm chuẩn mực giúp các em ngấm dần một cách tự nhiên khi đọc phát âm đúng. Một số trường hợp, học sinh phát âm sai không phải do hệ thống phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các em chưa hiểu cách phát âm mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương. Đối với những trường hợp trên, trong mỗi bài dạy, khi có từ ngữ hoặc chủ đề liên quan, giáo viên cần quan tâm tới các em thường nói sai, giải thích cho các em hiểu đúng nghĩa của từ cũng như cách dùng từ đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai theo cách nói của địa phương. 
 Với một số em cá biệt về phát âm, bản thân tôi đã gặp trực tiếp phụ huynh trao đổi và động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con em lúc ở nhà. Ngoài ra tôi còn trao đổi phụ huynh thường xuyên chú ý tới lời nói, cách phát âm của mọi người trong gia đình, giải thích cho phụ huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là môi trường giáo dục cho các em khi ở nhà. 
GV có thể hướng dẫn phụ huynh nắm được cách phát âm, cách rèn phát âm để phụ huynh rèn các em đọc ở nhà,.... 
Thường xuyên phối kết hợp với phụ huynh và hướng dẫn phụ huynh cách đọc để phụ huynh có thể hướng dẫn học sinh đọc ở nhà.
11. Luyện đọc vào các tiết luyện Tiếng Việt buổi chiều
	Trong các tiết luyện ở buổi chiều, GV cho hs luyện đọc lại bà đã học và cho HS tìm thêm từ bên ngoài đọc. Đặc biệt, GV cần cho HS chậm luyện đọc nhiều trong giờ này.
	Đối với HS năng khiếu có thể cho học sinh luyện đọc nâng cao trong các tiết luyện này.
	* Tóm lại: 
	Với cách dạy học chú trọng rèn các kĩ năng học tập và kinh nghiệm dạy giúp học sinh nắm chắc cách phát âm, luyện đọc ở mọi nơi mọi lúc, kết hợp với rèn luyện của GV trên lớp và kèm cặp của phụ huynh ở nhà như trên, học sinh sẽ đọc rất tốt, phát âm chuẩn, có hứng thú học tập, tích cực chủ động học tập theo năng lực cá nhân, học sinh biết vận dụng các kiến thức đã học để giải quyết vấn đề một cách linh hoạt sáng tạo. Học sinh khắc sâu cách đọc, phân biệt chính tả đúng, có thói quen phát triển tiếng, từ, câu, được tạo điều kiện phát triển tư duy, năng lực tự học, góp phần nâng cao chất lượng và kĩ năng đọc chuẩn cho HS.
 Ý KIẾN CỦA BGH:

File đính kèm:

  • docchuyen_de_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh_lop_1_phan_a.doc