Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp đổi mới phương pháp dạy học môn toán lớp 1
Công cuộc đổi mới kinh tế, xã hội đang diễn ra từng ngày. từng giờ trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thích ứng được với thực tiễn đời sống xã hội luôn luôn phát triển. Nhu cầu này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải được điều chỉnh một cách thích hợp dẫn đến sự thay đổi tất yếu về nội dung và phương pháp dạy học.
Những năm vừa qua, trong phong trào đổi mới phương pháp dạy học, một số giáo viên có tâm huyết với nghề, có hiểu biết sâu sắc về bộ môn, có tay nghề khá và nhạy cảm trước yêu cầu của xã hội đã thực hiện nhiều giờ dạy tốt, phản ánh được tinh thần của xu thế mới. Tuy nhiên, phổ biến hiện nay vẫn là cách dạy thông báo kiến thức có sẵn, dạy học theo phương pháp “thuyết trình có kết hợp với đàm thoại” là chủ yếu mà về thực chất vẫn là “thầy truyền đạt, trò tiếp nhận và ghi nhớ”.
Một nét nổi bật hiện nay là nhìn chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nếu tiếp tục cách dạy học thụ động như thế sẽ không đáp ứng được những yêu cầu mới của xã hội. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trong cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới căn bản về phương pháp dạy học. Đây không phải là vấn đề của riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm của mọi quốc gia trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Tôi đặt vấn đề so sánh độ dài của hai vật cố định xa nhau không dời được, học sinh phải làm thế nào? Học sinh phải suy nghĩ và đề xuất phương pháp mới - so sánh với độ dài của một đối tượng thứ ba, sử dụng đơn vị đo. Ví dụ 2: Với lớp 1, bài tập dạng dưới đây có tính vấn đề: 2 = 1 + 8 = + 3 6 = 4 + 10 = .+ 1 5. Phương pháp dạy học kiến tạo: Đây là một phương pháp dạy học tích cực. Tôi sử dụng phương pháp này khi có thể bởi vì với phương pháp này các em sẽ thích tự học, tự khám phá – phát hiện và giải qyết vấn đề. 6. Phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập: Để đánh giá học sinh tôi sử dụng các hình thức đánh giá (viết, vấn đáp) Học sinh cũng có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình, của bạn. Để kiểm tra kiến thức học sinh nắm được tôi sử dụng phiếu kiểm tra định kỳ và thường xuyên. Bài kiểm tra cần ra đề theo đúng trình độ chuẩn, từ dễ đến khó, đủ các dạng bài đại diện cho những nội dung cơ bản của chương trình, dễ chấm điểm và cộng điểm, mọi học sinh phát triển bình thường đều làm được bài nhưng không dễ dàng đạt điểm 10, phân loại chính xác trình độ học sinh. Không cho học sinh làm các bài có nội dung ngoài chương trình Toán 1. Sau đây là ví dụ về đề kiểm tra cuối học kì I của tôi: Viết: ( 1điểm) a) Theo mẫu: 1 . . b) Cách đọc số: 6: sáu 3: .. 9: 5: 7: Tính: (2 đểm) +5 +6 - 10 - 3 5 3 4 0 3. Tính : (1,5 điểm) 3 + 7 - 6 = 5 + 4 - 8 = 4 + 3 + 3 = 4. (1 điểm) > < = 9 5 + 5 4 + 4 5 +3 2 + 6 3 + 2 6 6 - 1 5.Hình? (1 điểm) Hình .... Hình Hình . 6. Viết phép tính thích hợp: (1 điểm) Có: 8 quả Cho em: 3 quả Còn: quả 7. Số? 4 + = 6 10 - = 5 + 9 = 10 7 - = 7 8. Nối phép cộng với số thích hợp : (1,5 điểm) 10 7 8 3 + 7 9 - 1 2 + 5 Còn đây là ví dụ về đề kiểm tra giữa học kì I của tôi: 1.Viết số thích hợp vào ô trống: (1 điểm) 0 2 6 10 4 2.Tính: (1,5 điểm) +5 +1 +2 0 3 3 3. (2 điểm) > < = 38 3.2 + 1 62 5.3 + 1 01 4 1 + 2 4. (1 điểm) a.Có mấy hình tam giác? b. Có mấy hình vuông? 5. Viết các số 10, 5, 0, 1: (1 điểm) a.Theo thứ tự từ bé đến lớn: b.Theo thứ tự từ lớn đến bé: 6. Nối phép cộng với số thích hợp : (1,5 điểm) 3 + 2 5 3 4 3 + 0 2 + 2 7. Viết phép tính thích hợp: (2 điểm) ? Ngoài các phương pháp trên tôi cũng sử dụng các phương pháp sau: * Phương pháp gợi mở vấn đáp: Tôi thường sử dụng phương pháp vấn đáp để tiến hành gợi mở làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của các em. Ngoài ra còn rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình bằng ngôn ngữ, làm cho các em nắm kiến thức nhanh chóng và sâu sắc. * Phương pháp thuyết trình: Phương pháp này tôi sử dụng để trình bày kiến thức mới, giải toán mẫu. Tuy nhiên phương pháp này tôi rất hạn chế sử dụng, chỉ sử dụng khi thật cần thiết: nhịp điệu chậm, phần nội dung thuyết trình ngắn và chiếm khoảng thời gian ngắn nhất trong một tiết học. Khi sử dụng phương pháp này tôi thường kết hợp với các phương pháp khác để học sinh thích thú và hào hứng hoạt động, ví dụ như phương pháp minh họa bằng vật thật, với đàm thoại, *Phương pháp đọc tài liệu: Tôi tìm hiểu và đọc một số tài liệu về phương pháp giảng dạy Toán 1, về cách đổi mới phương pháp dạy học để giúp cho việc áp dụng đạt kết quả cao. * Phương pháp giảng giải minh họa: Ở phương pháp này tôi sử dụng để giải thích nội dung toán kết hợp với việc dùng trực quan để hỗ trợ cho việc giải toán giúp học sinh hiểu, nhớ kiến thức, gây hứng thú học tập. Tuy nhiên phương pháp này cũng có mặt hạn chế của nó nên tôi ít sử dụng. Ngoài ra muốn đổi mới phương pháp dạy học có kết quả ngay từ đầu năm tôi đã xác định được cần phải đổi mới cách thiết kế bài dạy, lập kế hoạch bài dạy và xây dựng mục tiêu bài học. Tôi xác định kế hoạch bài học trong sách giáo viên dù đã được thiết kế chu đáo đến đâu cũng chỉ là phương án dự kiến để tạo thuận lợi cho giáo viên trong việc chuẩn bị dạy học. Một trong những yêu cầu quan trọng của dạy học là rất cần sát với đối tượng. Vì vậy, tôi cần xuất phát từ tình hình thực tiễn của lớp để có những điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với đối tượng học sinh. Đối với tôi kế hoạch bài dạy rất quan trọng nó giúp tôi tự tin khi lên lớp. Kế hoạch bài dạy theo tôi cần ngắn gọn, dễ sử dụng, dễ bổ sung, dễ điều chỉnh, nêu rõ và đầy đủ các hoạt động dạy học cụ thể. Mỗi kế hoạch bài dạy của tôi thường có: Mục tiêu: Tôi dựa vào yêu cầu cần đạt của Chuẩn kiến thức, kỹ năng; dựa vào tình hình thực tế của lớp, địa phương để xác định mục tiêu cho bài. Đồ dùng dạy học: Đồ dùng dạy học là một thiết bị rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị một tiết lên lớp. Lớp học có sinh động, có đạt hiệu quả hay không đòi hỏi người giáo viên và học sinh phải chuẩn bị tốt đồ dùng cho tiết học ấy. Các hoạt động dạy học chủ yếu: Ở nội dung này cần nêu kế hoạch tổ chức và hướng dẫn từng hoạt động học tập của học sinh theo mục tiêu đã xác định. Cần xác định rõ tên từng loại hoạt động, cách tiến hành các hoạt động đó, dự kiến trình tự các hoạt động Ví dụ: Bài: PHÉP TRỪ TRONG PHẠM VI 9 Mục tiêu: Học sinh: - Thuộc bảng trừ. - Biết làm tính trừ trong phạm vi 9. - Viết được phép tính thích hợp với hình vẽ. (( Bài tập cần làm: Bài 1; bài 2(cột 1, 2, 3); bài 3( bảng 1); bài 4)) Đồ dùng dạy học: Sử dụng bộ đồ dùng học Toán lớp 1. Các mô hình, vật thật phù hợp với nội dung bài học. Các hoạt động dạy học chủ yếu: 1.Ổn định 2.Kiểm tra bài cũ: Phép cộng trong phạm vi 9 ♣ 2 học sinh làm bài tập trên bảng lớp: 4 + 5 = 1 + 8 = 4 + 2 + 3 = 1 + 2 + 6 = 4 + 1 + 4 = 1 + 5 + 3 = ♣ Chấm vở bài tập một số học sinh. ♣ Nhận xét, ghi điểm. ♣ Nhận xét bài cũ. 3. Bài mới: Giới thiệu bài: Ở tiết trước các em đã được học về phép cộng trong phạm vi 9. Hôm nay để các em có thể hiểu và làm được các phép tính trừ trong phạm vi 9. Cô cùng các em đi vào bài mới: Phép trừ trong phạm vi 9. Giáo viên ghi tựa bài lên bảng, học sinh nhắc lại. HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH ÓHoạt động 1: Thành lập và ghi nhớ bảng trừ trong phạm vi 9: * Thành lập 9 – 1 = 8 và 9 – 8 = 1 -Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát vật thật để nêu thành bài toán. -Giáo viên hỏi: “Tất cả có mấy cái kéo?” - Giáo viên hỏi :” Có mấy cái kéo ở phần bên phải ?” - Giáo viên: “Hỏi còn lại có mấy cái kéo ở phần bên trái ?” - Giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại bài toán. - Giáo viên gọi học sinh nêu câu trả lời và hướng dẫn học sinh nêu đầy đủ. -GV: “ 9 bớt 1 còn mấy?” - Giáo viên nêu: “Ta viết 9 bớt 1 còn 8 như sau”. GV viết 9 – 1 = 8 - Giáo viên chỉ vào phép tính 9 – 1 = , hướng dẫn học sinh điền. - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại. - Giáo viên hỏi học sinh: “9 – 1 = mấy ?” - Giáo viên hướng dẫn học sinh tự tìm kết quả phép trừ: 9 – 8 = 1 thông qua phép trừ 9 – 1 = 8. * Thành lập phép trừ 9 – 2 = 7 và 9 – 7 = 2 tương tự như đối với 9 – 1 = 8 và 9 – 8 = 1 * Thành lập phép trừ 9 – 3 = 6 và 9 – 6 = 3 tương tự như đối với 9 – 2 = 7 và 9 – 7 = 2 * Thành lập phép trừ 9 – 4 = 5 và 9 – 5 = 4 tương tự như đối với 9 – 3 = 6 và 9 – 6 = 3 - Giáo viên: “Chúng ta vừa lập xong bảng trừ trong phạm vi mấy?” - Giáo viên yêu cầu học sinh đọc các phép tính vừa lập theo thứ tự khác nhau. - Cho học sinh tái hiện số bị xóa hoặc che lấp: + Cho học sinh tái hiện một phần bảng tính. + Cho học sinh tái hiện toàn bộ bảng tính: GV bỏ bảng tính đi. Lớp thư giãn. ÓHoạt động 2: Hướng dẫn học sinh thực hành làm tính trừ trong phạm vi 9: (Bài tập 1:- Giáo viên nêu phép tính : 9 – 1 = ?, 9 – 2 = ?, 9 – 3 = ?, 9 – 4 = ?, 9 – 5 = ?, 9 – 6 = ?. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bảng con, bảng lớp. - Lưu ý học sinh các số viết phải thẳng cột. (Bài tập 2 (cột 1, 2, 3) : - Giáo viên yêu cầu học sinh làm bài vào vở. - Giáo viên nhận xét. - Giáo viên: “Trong các phép tính trên có tất cả những số nào? Chúng có đứng ở các vị trí giống nhau không?” (Bài tập 3 (bảng 1): - Giáo viên phát phiếu bài tập. - Giáo viên thu phiếu bài tập. -Chấm thử, nêu nhận xét. (Bài tập 4: - Giáo viên chia lớp thành 2 dãy, mỗi dãy cử 1 học sinh thi viết phép tính tương ứng ( phù hợp với đề toán) - Giáo viên nhận xét. (Bài tập dành cho học sinh khá, giỏi: - = 9 9 - = 6 - 7 = 2 9 -.= 9 -Học sinh quan sát hình vẽ và nêu: “Tất cả có 9 cái kéo”. - Học sinh: “ Có 1 cái kéo ở phần bên phải”. - Học sinh: “Còn lại 8 cái kéo ở phần bên trái”. - Học sinh nêu:” 9 cái kéo bớt đi 1 cái kéo còn 8 cái kéo”. - Học sinh: 9 bớt 1 còn 8. - Học sinh đọc: 9 trừ 1 bằng 8. - Học sinh tự điền số 8 vào kết quả của phép tính 9 – 1 =. - Học sinh đọc lại: 9 – 1 = 8 - Học sinh tự tìm ra kết quả phép trừ 9 – 8 = 1 -Ở phần này học sinh tự quan sát hình vẽ và nêu bài toán. - Học sinh: “Chúng ta vừa lập xong bảng trừ trong phạm vi 9”. - Học sinh đọc. -Học sinh nêu toàn bộ phép trừ kể cả số bị che lấp( hoặc bị xóa). -Học sinh thực hiện theo yêu cầu của giáo viên. - Học sinh nêu nhanh kết quả: 9 – 1 = 8, 9 – 2 = 7, 9 – 3 = 6, 9 – 4 = 5, 9 – 5 = 4, 9 – 6 = 3. - 1 học sinh làm bảng lớp, cả lớp làm bảng con: - 9 - 9 - 9 - 9 7 8 9 0 2 1 0 9 - Học sinh đọc yêu cầu: Tính - Học sinh tính nhẩm và viết kết quả vào vở. - 3 học sinh đọc phép tính, kết quả phép tính. - Học sinh nhận xét từng cột. - Học sinh rút ra được phép trừ là phép tính ngược lại của phép cộng. - Học sinh nêu yêu cầu. - Học sinh làm bài tập. -1 học sinh sửa bài. -Lớp nhận xét. - Học sinh nêu yêu cầu. - Học sinh quan sát tranh. - Học sinh tự nêu bài toán. - Học sinh làm bài 4 thông qua trò chơi. -Học sinh khá, giỏi làm. 4.Hoạt đông nối tiếp: Học sinh nêu tựa bài Giáo viên nhận xét tiết học. Giáo viên giáo dục tư tưởng. Dặn dò: Chuẩn bị bài sau. PHẦN IV: KẾT QUẢ Qua quá trình giảng dạy môn Toán lớp 1 theo hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. Đó là tổ chức giờ học như là tổ chức các hoạt động học tập. Học sinh được phát huy tính tích cực chủ động học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng được các kiến thức đã học. Tôi nhận thấy các em có sự tiến bộ rõ rệt, hứng thú hơn trong giờ học toán, hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung câu trả lời của bạn, biết nêu thắc mắc hay đề nghị giải thích những vấn đề chưa đủ rõ, chủ động vận dụng kiến thức, kỹ năng đã học để nhận thức vấn đề mới, tập trung chú ý vào vấn đề đang học, kiên trì thực hiện các bài tập, không nản trước những khó khăn. Các em nắm kiến thức một cách sâu sắc và có ý thức. Kết quả học tập của các em có sự tiến bộ rõ rệt. Việc học tốt môn Toán cũng giúp các em học tốt các môn học khác. Kết quả học tập môn Toán của học sinh lớp 1/ 1 mà tôi phụ trách đạt được như sau: Thời gian HỌC LỰC MÔN TOÁN G K TB Y TS % TS % TS % TS % Giữa HKI 8 25,8 8 25,8 10 32,3 5 16,1 Cuối HKI 13 41,9 11 35,5 4 12,9 3 9,7 PHẦN V: BÀI HỌC KINH NGHIỆM Để đổi mới phương pháp dạy học Toán lớp 1 có hiệu quả tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau: ♀ Trước hết người giáo viên phải nắm vững chương trình và sách giáo khoa, hiểu đặc điểm tâm lý học sinh để lựa chọn và sử dụng những phương pháp, phương tiện và hình thức dạy học phù hợp. ♀Giáo viên phải cải tiến không ngừng phương pháp dạy học và giúp học sinh cải tiến phương pháp học. ♀ Giáo viên phải biết dựa vào những tri thức mà học sinh đã có, đã học để hướng dẫn học sinh nâng cao lên một trình độ mới. ♀ Hiểu không có phương pháp nào là tồi, mỗi phương pháp đều có giá trị riêng của nó. Hiệu quả hay không hiệu quả đều phụ thuộc vào người sử dụng. Nếu các phương pháp dạy học được kết hợp và bổ sung cho nhau thì cách dạy học ấy sẽ phù hợp được với đối tượng học đa dạng, chống sự nhàm chán và tạo ra sự năng động trong cách nghĩ, cách làm của học sinh. ♀ Giáo viên phải biết kết hợp hoạt động cá nhân với hoạt động nhóm và phát huy khả năng của cá nhân. ♀ Tăng cường rèn kỹ năng thực hành cho học sinh. ♀ Sử dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại vào dạy học. ♀ Linh hoạt trong ứng xử sư phạm để thích ứng với sự thay đổi của đối tượng và hoàn cảnh. ♀ Luôn kiểm tra và đánh giá kiến thức và kỹ năng đạt được ở học sinh có động viên khuyến khích các em. ♀ Luôn tự tìm tòi, học hỏi rút kinh nghiệm để bồi dưỡng chuyên môn của mình. ♀ Tăng cường thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm, áp dụng những sáng kiến trong giảng dạy. ♀ Đổi mới phương pháp dạy học cùng với đổi mới cách kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng như cách thiết kế bài dạy. PHẦN VI: NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Đổi mới phương pháp dạy học không thể đi đúng hướng nếu trình độ chuyên môn của giáo viên còn hạn chế. Vì vậy tôi đề nghị Sở, Phòng GD sẽ thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và phương pháp dạy học cho giáo viên. Công nghệ thông tin có tác dụng rất tích cực trong việc giảng dạy, trong khi đó đa số giáo viên còn chưa được đào tạo về vấn đề này. Tôi mong muốn sắp tới giáo viên sẽ được đào tạo bài bản và rộng rãi về sử dụng máy tính, máy chiếu, soạn giáo án điện tử, PHẦN VII: KẾT LUẬN Trong quá trình giảng dạy một số năm học ở lớp 1 bản thân tôi đã có điều kiện để học tập, tham khảo cách đổi mới phương pháp dạy học của các đồng nghiệp. Đây là một vấn đề đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa giáo viên, nhà trường, gia đình và chính bản thân của học sinh trong suốt quá trình học tập. Vì sự nhận thức của bản thân còn nhiều hạn chế nên trong quá trình viết bài còn nhiều thiếu sót. Vậy rất mong các đồng nghiệp sẽ giúp đỡ tôi để phương pháp giảng dạy Toán lớp 1 đạt hiệu quả cao nhất. Minh Hòa, ngày 31 tháng 1 năm 2012 Người viết Vũ Thị Thu Hiền PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG TIỂU HỌC MINH HÒA PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC- ĐÀO TẠO HUYỆN DẦU TIẾNG PHẦN NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TỈNH BÌNH DƯƠNG MỤC LỤC PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ TRANG 1 PHẦN II ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH TRANG 3 PHẦN III CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN TRANG 5 PHẦN IV KẾT QUẢ TRANG 19 PHẦN V BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRANG 20 PHẦN VI NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT TRANG 21 PHẦN VII KẾT LUẬN TRANG 22 TRANG PHẦN IV GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHẦN V KẾT QUẢ TRANG PHẦN VI BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRANG PHẦN VII NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT TRANG PHẦN VIII KẾT LUẬN TRANG Nội dung môn Toán lớp 1 gồm có 4 tuyến kiến thức chính là: số học, đại lượng và đo đại lượng, yếu tố hình học, giải toán có lời văn. Dạy học các mạch kiến thức trên, tôi đều cố gắng theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học. Đó là phải tổ chức giờ học như là tổ chức các hoạt động học tập. Trong sách giáo khoa Toán 1 có các phiếu học và phiếu thực hành. Phiếu học của Toán 1 gồm phần bài học và phần các bài thực hành có ghi theo thứ tự bắt đầu từ số 1. Phần bài học trong mỗi phiếu của Toán 1 thường không nêu các kiến thức có sẵn mà thường chỉ nêu các tình huống( bằng hình ảnh) để học sinh hoạt động và tự phát hiện ra kiến thức mới theo hướng dẫn của giáo viên. Phần thực hành trong phiếu học là các bài luyện tập để củng cố kiến thức mới học. Phiếu thực hành bao gồm các bài tập, các câu hỏi sắp xếp theo thứ tự từ dễ đến khó dần. Các bài tập mới hoặc các bài tập khó thường đặt ở cuối phiếu. Để dạy tốt phần bài học tôi thường giúp học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học: tôi sẽ hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ, tranh, ảnh,...trong sách hoặc sử dụng đồ dùng thích hợp để tự học sinh nêu ra vấn đề cần giải quyết rồi tự học sinh tham gia giải quyết vấn đề. Thời gian đầu tôi sẽ hướng dẫn học sinh nêu và giải quyết vấn đề. Khi học sinh đã quen tôi yêu cầu học sinh tự nêu và tự giải quyết vấn đề. Sau khi học sinh đã phát hiện và giải quyết vấn đề thì tùy theo loại bài học mà tôi hình thành kiến thức mới hoặc giúp các em tự nêu, tự giải quyết vấn đề, tự xây dựng kiến thức mới. Sau đó tôi giúp cho học sinh ghi nhớ kiến thức mới. Dạy phần bài mới tôi luôn chú ý đến việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học. Trong quá trình dạy học Toán tôi cũng luôn quan tâm đến rèn luyện cho học sinh cách diễn đạt ngắn, gọn, rõ ràng, vừa đủ nội dung của một thông tin bằng lời hoặc bằng ký hiệu, sơ đồ. Để dạy tốt phần thực hành, luyện tập( trong tiết dạy học bài mới và trong tiết luyện tập, luyện tập chung, ôn tập) tôi nắm được nhiệm vụ chủ yếu của loại bài này là củng cố các kiến thức mà học sinh mới chiếm lĩnh được. Tôi phải giúp học sinh nhận ra kiến thức mới học trong các dạng bài tập khác nhau. Nếu học sinh không tự nhận ra được thì tôi sẽ gợi ý, hướng dẫn để học sinh nhớ lại kiến thức và cách làm chứ không làm thay học sinh. Tôi luôn yêu cầu học sinh phải làm các bài tập theo thứ tự sắp xếp trong phiếu hoắc do tôi sắp xếp, không được tự ý lướt qua hoặc bỏ qua bài tập. Trong quá trình làm bài, học sinh nào đã làm xong bài 1 và tự kiểm tra rồi hoặc tôi đã kiểm tra thì để cho em làm tiếp sang bài tập 2 không nhất thiết phải chờ cả lớp cùng làm xong. Trong một tiết học có học sinh làm được nhiều bài tập, có học sinh làm được ít bài tập, tôi sẽ giúp đỡ thêm cho những em chậm làm được nhiều bài hơn và giúp cho những em khá, giỏi làm hết các bài tập và hiểu rõ nội dung từng bài tập. Một điều quan trọng nữa là tôi tập cho các em có thói quen không thỏa mãn với bài làm của mình, với các cách giải đã có bằng cách khuyến khích, nêu gương và không “áp đặt” học sinh theo phương án có sẵn mà động viên các em tìm, lựa chọn phương án tốt nhất. Trong tiết học để giúp học sinh tự tin vào khả năng của bản thân, tự rút kinh nghiệm về cách học của bản thân tôi tạo ra sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các em học sinh ví dụ như cho học sinh trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ về cách giải một bài tập, khuyến khích học sinh nhận xét về cách giải của bạn, tự rút kinh nghiệm trong quá trình trao đổi ý kiến ở nhóm. Phương pháp tổ chức dạy học theo nhóm hợp tác: Đây là phương pháp dạy học tích cực cần thiết trong dạy học môn Toán ở Tiểu học. Tùy theo mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập( tiết dạy về kiến thức mới, tiết thực hành, luyện tập), các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hoặc có chủ định trong cả tiết học hoặc thay đổi trong từng phần của tiết học. Tùy nội dung mà tôi giao cho các nhóm cùng một nhiệm vụ hoặc khác nhau về nhiệm vụ. Khi hoạt động theo nhóm yêu cầu của tôi là mọi cá nhân trong nhóm đều phải làm việc, các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu và giải quyết vấn đề. Đại diện nhóm sẽ trình bày kết quả làm việc của nhóm trước lớp. Từ kết quả làm việc của các em tôi sẽ tổ chức chốt lại các kến thức mới xuất hiện mà các em tìm được và đánh giá hoạt động học tập của các nhóm. Để tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, môn toán Tiểu học cần có phương pháp dạy học phù hợp. Xu thế chung trên thế giới hiện nay là đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong quá trình dạy học. Luật Giáo dục Việt Nam cũng khẳng định phương pháp dạy học phải phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động và sáng tạo của học sinh. 1. Về tổ chức lớp: Đầu năm học tôi thực hiện công tác ổn định tổ chức lớp, dần đưa các em vào nền nếp, tổ chức bầu ra ban cán sự lớp, bố trí, sắp xếp chỗ ngồi: học sinh khá giỏi ngồi xen kẽ với học sinh trung bình, yếu. Tạo tình đoàn kết tốt trong lớp học. Khen ngợi và động viên kịp thời để các em hứng thú trong quá trình học tập. Với những học sinh yếu toán tôi bố trí cho ngồi đầu bàn ngoài để tiện theo dõi, kiểm tra, giúp đỡ các em. Tìm hiểu, nghiên cứu lý lịch, hoàn cảnh từng em, ghi chép vào sổ theo dõi. Phân loại học sinh ngay từ đầu năm để có kế hoạch bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu kém. Trực tiếp trao đổi với học sinh để năm thêm tình hình và khó khăn riêng của từng em xem các em có sự quan tâm giúp đỡ của gia đình không? có tự giác học tập không?... để có biện pháp giáo dục phù hợp. Tận dụng thời gian cuối mỗi buổi học để phụ đạo thêm cho học sinh yếu kém, vận động các em học sinh khá giỏi tham gia để giúp bạn cùng tiến bộ. Trong những năm gần đây, Nghị quyết của Đại hội Đảng và những văn kiện khác của Nhà nước và của Bộ Giáo dục và Đào tạo đều nhấn mạnh rằng cần đổi mới phương pháp giáo dục cho phù hợp với sự phát triển của đất nước để đào tạo ra những con người “năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề”.
File đính kèm:
- skkn.doc