Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN

Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo tiếp tục xác định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; “Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”.

Trong hệ thống giáo dục quốc dân, cấp tiểu học là cấp học nền tảng. Sự thành công của giáo dục Tiểu học có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển và chất lượng của các cấp học tiếp theo. Đây là cấp học cơ sở đặt nền móng cho sự phát triển của một quốc gia. Mục tiêu giáo dục của cấp Tiểu học hiện nay là: “Hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở ”

 Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học theo mô hình trường tiểu học mới Việt Nam (VNEN). Các Sở Giáo dục và Đào tạo, các Phòng Giáo dục và Đào tạo đã đưa vào dạy thí điểm mô hình trường tiểu học mới VNEN ở một số nhà trường tiểu học. Năm học 2015 - 2016, trường tiểu học Khánh Cư là một trong số 7 đơn vị của huyện Yên Khánh được dạy thí điểm chương trình VNEN đối với học sinh khối lớp 2. Năm đầu tiên được tham gia dạy thử nghiệm, bản thân những người trực tiếp đứng lớp cũng như những người làm công tác quản lý chỉ đạo không khỏi có những bỡ ngỡ, lo lắng. Việc suy nghĩ làm thế nào để thực hiện thành công và có chất lượng việc dạy thí điểm theo mô hình trường tiểu học mới luôn làm tôi phải suy nghĩ và trăn trở. Đó không chỉ đơn thuần là chất lượng mà đó còn là việc hình thành nhân cách, lối sống, phẩm chất, năng lực và trí tuệ của những thế hệ học trò.

 

doc22 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p, đồng thời phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo và rèn luyện một số kỹ năng cơ bản như kỹ năng hợp tác nhóm, kỹ năng học nhóm, kỹ năng giao tiếp. Đó cũng là những yếu tố cơ bản góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh.
2.3.2. Chỉ đạo xây dựng lớp học thân thiện:
	Lớp học là ngôi nhà thứ hai của các em. Ở đó, các em được học tập, được vui chơi, được kết giao bè bạn... Việc trang trí lớp học tạo cho các em một môi trường thân thiện, giúp các em nhận thức về cái đẹp và có ý thức giữ gìn trường lớp của mình sạch đẹp, tạo không khí thoải mái trong giờ học. Vì vậy nhà trường đã chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm các lớp phối hợp với hội cha mẹ học sinh sáng tạo nên các góc học tập, thư viện lớp học, trang trí lớp, tạo cảnh quan lớp học vừa đẹp, vừa thân thiện, gắn liền với các hoạt động học tập, vui chơi của học sinh. Xây dựng hộp thư điều em muốn nói: Mục đích nhằm giúp học sinh có cơ hội bày tỏ ý kiến, những điều em không tiện nói trước lớp, những ý kiến, những chia sẻ về cuộc sống, hoàn cảnh gia đình, về tâm sinh lý...Qua đó, vừa giúp cho học sinh bày tỏ tất cả những vướng mắc trong cuộc sống và trong học tập. Xây dựng góc cộng đồng thông qua việc giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh sưu tầm, giới thiệu về văn hóa lịch sử của địa phương, của dân tộc, các tác phẩm thơ ca hò vè, trò chơi dân gian... Các sản phẩm của địa phương làm ra. Chính hoạt động này kích thích các em hứng thú tìm tòi, sưu tầm, giới thiệu qua đó giúp các em thêm hiểu và yêu văn hóa, lịch sử truyền thống một cách tự nhiên, bền vững.
	Xây dựng thư viện lớp học huy động sự đóng góp của phụ huynh và học sinh, giáo viên, có sự giúp đỡ của nhà trường và địa phương, tạo điều kiện cho các em có những đầu sách, truyện hay để các em đọc, tham khảo. Ngoài việc đọc sách tăng thêm vốn tri thức, mở rộng vốn hiểu biết, phát triển kỹ năng đọc, thì thư viện lớp học còn góp phần rèn kỹ năng sống có trách nhiệm, trung thực, có ý thức bảo vệ của công, tài sản chung, có thói quen sống gọn gàng, ngăn nắp. Đây là một trong những kỹ năng sống rất cần thiết cho học sinh sau này.
	2.3.3. Chỉ đạo thành lập Hội đồng tự quản:
	Chỉ đạo 100% các lớp thành lập Hội đồng tự quản. Giáo viên chủ nhiệm các lớp tổ chức cho học sinh bầu Hội đồng tự quản ngay từ tuần 0. Hội đồng tự quản gồm Chủ tịch, các phó chủ tịch và các thành viên. Giáo viên chủ nhiệm có trách nhiệm giao nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên của Hội đồng tự quản, giải thích vai trò, trách nhiệm của từng thành viên và hướng dẫn các em cách thực hiện nhiệm vụ của mình trong học tập. Hàng kỳ, các em lại được thảo luận, đánh giá và bầu lại Hội đồng tự quản để phát huy tốt nhất sở trường, năng lực của từng cá nhân trong lớp.
	2.3.4. Chỉ đạo xây dựng các nhóm học tập: 
	Giáo viên chủ nhiệm tổ chức, phân chia các nhóm học tập cho học sinh tùy vào đặc thù của lớp. Trong các nhóm, các em tự bầu nhóm trưởng, thư ký, báo cáo viên để điều hành các hoạt động học tập trong nghóm. Việc bầu nhóm trưởng, thư ký và báo cáo viên cũng được thường xuyên luân chuyển để tạo điều kiện cho học sinh phát triển các kỹ năng. Giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn mẫu cách thức thực hiện vai trò của từng thành viên và ở từng vị trí mà các em đảm nhiệm. Từ đó tạo điều kiện để các em dần sáng tạo và phát huy năng lực, sở trường của mình trong việc tham gia, điều hành các hoạt động chung.
2.3.5. Chỉ đạo thực hiện điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học phù hợp với hoàn cảnh dạy học và đặc điểm học sinh
Chất lượng dạy học phụ thuộc nhiều vào chất lượng tài liệu dạy học. Mặt khác, tài liệu chỉ có thể nêu ra một phương án cụ thể về kế hoạch bài học cho học sinh và giáo viên. Vì thế, nó không thể thích ứng cho mọi vùng miền và mọi đối tượng học sinh. Việc chỉ đạo và tổ chức cho giáo viên điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học vừa làm cho chất lượng dạy học, chất lượng giáo dục tốt lên, vừa nâng cao năng lực nghiên cứu sư phạm, ý thức chủ động, sáng tạo của mỗi giáo viên - người trực tiếp sử dụng tài liệu. Vì vậy, tôi đã chỉ đạo giáo viên nghiên cứu kỹ tài liệu hướng dẫn học, xem xét điều kiện thực tế của lớp, của trường, của địa phương để viết điều chỉnh cho từng bài dạy, từng tiết dạy cho phù hợp và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc điều chỉnh tài liệu hướng dẫn học cần đảm bảo các nguyên tắc: Bảo đảm yêu cầu về chuẩn kiến thức và kĩ năng; phù hợp với học sinh; phù hợp với năng lực của giáo viên và các điều kiện của địa phương; phù hợp nguyên tắc, cấu trúc tài liệu theo mô hình VNEN. Mỗi giáo viên cần xây dựng bảng tiêu chí cho việc điều chỉnh tài liệu VNEN, phân tích tài liệu theo những tiêu chí này và tạo ra các thay đổi cần thiết trước khi học sinh được đọc tài liệu Hướng dẫn học. Như vậy, các hướng dẫn của giáo viên sẽ phù hợp với môi trường và nhu cầu của học sinh, quá trình giáo dục sẽ cuốn hút học sinh tham gia một cách tích cực hơn.
Việc điều chỉnh nội dung, phương pháp dạy học có thể theo nhiều hướng khác nhau. Giáo viên có thể tăng/giảm thời lượng cho mỗi hoạt động học tập; điều chỉnh yêu cầu (lệnh) của hoạt động; thay đổi, điều chỉnh ngữ liệu học; thêm mẫu thực hiện, thêm gợi ý, thêm nội dung phân tích mẫu, thay đổi đồ dùng dạy học, điều chỉnh hình thức lưu giữ kết quả hoạt động, sáng tạo các bài tập ứng dụng, ... Hoặc giáo viên có thể điều chỉnh hình thức tổ chức dạy học như: Điều chỉnh thành viên nhóm, phiên chế lại nhóm, thay đổi vai của từng thành viên trong nhóm; thay đổi tương tác thầy - trò, trò – trò; Nhiệm vụ giao cho mỗi thành viên cần được luân phiên thay đổi để mỗi học sinh có cơ hội trải nghiệm.
2.3.6. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch dạy học trên lớp
Tinh thần của dạy học theo mô hình VNEN là giáo viên không phải soạn giáo án, bởi tài liệu Hướng dẫn học đã chỉ dẫn từng hoạt động rất cụ thể và tường minh. Tuy nhiên, trong điều kiện tài liệu Hướng dẫn học còn nhiều bất cập và chưa phù hợp với hoàn cảnh, môi trường cũng như đặc điểm của học sinh từng vùng miền và sự cần thiết phải điều chỉnh lại nội dung, phương pháp dạy học, điều chỉnh các hình thức tổ chức dạy học như trên thì việc giáo viên phải bỏ thời gian, công sức nghiên cứu bài học, đọc thêm tài liệu tham khảo để hiểu thấu đáo nội dung bài học, để hình dung trước các tình huống có thể xảy ra với học sinh của mình trong quá trình tiếp nhận kiến thức trên lớp là điều hết sức cần thiết. Giáo viên có thể không phải soạn giáo án một cách công phu, đảm bảo đúng trình tự quy định như giáo án của cách dạy hiện hành nhưng tiến trình của tiết dạy, các kiến thức cần ghi bảng hay học sinh cần ghi vào vở, giáo viên phải chuẩn bị thật công phu để có thể xử lý linh hoạt trong quá trình tổ chức dạy học trên lớp.	
2.3.7. Chỉ đạo tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh:
Nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển thông qua các hoạt động chủ động, thông qua các hành động có ý thức. Trí tuệ của trẻ được phát triển nhờ sự “đối thoại” giữa chủ thể với đối tượng và môi trường. Trong mô hình VNEN, học sinh – chủ thể của hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa biết chứ không phải là thụ động tiếp thu những tri thức đã được sắp đặt sẵn. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, học sinh trực tiếp quan sát, làm thí nghiệm, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo suy nghĩ cá nhân, từ đó vừa nắm được kiến thức mới, kĩ năng mới vừa được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình. Vì thế, dạy học theo mô hình VNEN xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Việc tổ chức các hoạt động dạy và học cần đảm bảo:
+ Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của học sinh. Tổ chức các hoạt động học tập của học sinh cần phải trở thành trung tâm của quá trình giáo dục.
+ Chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, phương pháp tư duy và phương pháp giải quyết vấn đề. Đây là những phẩm chất và điều kiện tốt nhất để có thể duy trì thói quen học tập thường xuyên và học tập suốt đời.
+ Tăng cường học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học hợp tác và học nhóm. Học sinh là chủ thể của quá trình học, tự mình chủ động chiếm lĩnh kiến thức. Tạo ra môi trường học tập tương tác, thày - trò, trò - trò vì thế nó có tác dụng rất tốt để phát huy năng lực của mỗi cá nhân học sinh.
+ Dạy và học chú trọng tới sự quan tâm và hứng thú của học sinh, nhu cầu và lợi ích của xã hội. Dạy học sinh trên những gì các em đã có, tạo hứng thú, óc tò mò, sáng tạo cho học sinh. Học sinh phải biết cách làm việc độc lập, sáng tạo, biết tổ chức công việc để giải quyết các đòi hỏi của xã hội và nhu cầu đa dạng, phức tạp của công việc sau này.
+ Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi, học qua trải nghiệm. Giáo viên hướng dẫn mang tính định hướng mà không có ý áp đặt trong quá trình học của học sinh.
+ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò, của gia đình, cộng đồng.
Trong xu hướng toàn cầu hoá, xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia thì năng lực hợp tác thực sự trở thành một mục tiêu đào tạo của giáo dục nhà trường. Trong mô hình VNEN, việc rèn luyện phương pháp học để chuẩn bị cho học sinh khả năng học tập liên tục, suốt đời được xem như một mục tiêu giáo dục thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển khả năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Giáo viên phải tạo điều kiện để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau. Việc học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau sẽ có tác dụng tích cực để học sinh tự học và điều chỉnh bản thân.
Theo hướng phát triển của mô hình VNEN là để đào tạo ra những con người năng động, sớm thích ứng với đời sống xã hội, hoà nhập và góp phần phát triển cộng đồng thì việc kiểm tra phải khuyến khích trí thông minh, sáng tạo, phát hiện sự chuyển biến thái độ và xu hướng hành vi của học sinh trước những vấn đề của đời sống cá nhân, gia đình và cộng đồng; rèn luyện cho các em khả năng phát hiện và vận dụng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong các tình huống thực tế. Việc đổi mới kiểm tra đánh giá sẽ có tác dụng thúc đẩy sự đổi mới phương pháp dạy học.
Tóm lại, trong phương pháp dạy học theo mô hình VNEN, người được giáo dục trở thành người tự giáo dục, là nhân vật tự giác, chủ động có ý thức về sự giáo dục bản thân mình.
2.8. Tổ chức các chuyên đề về dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN:
2.4. Kết quả: 
	Qua một năm chỉ đạo, thực hiện dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN, tôi nhận thấy nề nếp chuyên môn nhà trường có nhiều đổi khác:
- Cán bộ, giáo viên đã có thay đổi sâu sắc quan niệm về nhà trường. Nhà trường không chỉ là nơi dạy chữ mà còn là nơi dạy, chăm sóc toàn diện cho học sinh. Đây thực sự là môi trường học tập, vui chơi thân thiện, nơi gắn kết các mối quan hệ: quan hệ giữa học sinh với học sinh, giữa nhà trường với học sinh, giữa nhà trường và cha mẹ học sinh, giữa giáo viên với học sinh. Trong môi trường này, các hoạt động giáo dục được thực hiện rất dân chủ, thân thiện, tạo cảm giác tin cậy, ấm áp đối với học sinh.
- Mô hình dạy học đã làm thay đổi quá trình sư phạm của giáo viên. Giáo viên đã từ chỗ một mình, tự mình quyết định cung cấp cho học sinh những kiến thức gì trong môn học với cách dạy hiện hành thì ở mô hình này, “quyền năng” đó đã được san sẻ cho học sinh với sự gợi ý của tài liệu Hướng dẫn học. Học sinh đã thực sự làm chủ cách học, làm chủ kiến thức.
- Các lớp dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN có nề nếp học tập có nhiều điểm khác so với các lớp thực hiện theo chương trình hiện hành. Cụ thể là:
+ Nề nếp, ý thức tự quản của học sinh tốt hơn.
+ Học sinh được phát triển các năng lực một cách toàn diện hơn (năng lực tự quản, năng lực hợp tác, năng lực quản lí, năng lực thuyết trình,...). Học sinh đã tỏ rõ sự mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, kĩ năng sống của các em theo đó được phát triển, đáp ứng yêu cầu của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục nước nhà, đào tạo con người theo định hướng phát triển năng lực.
+ Với cách thức tổ chức hoạt động nhóm, học sinh được phát huy tối đa sự hiểu biết, năng lực của bản thân; số lần học sinh được bày tỏ ý kiến nhiều hơn; những học sinh yếu được giáo viên quan tâm nhiều hơn và được các bạn trong nhóm giúp đỡ để hoàn thành nhiệm vụ. Điểm khác biệt lớn nhất là trước kia để đánh giá được mức độ hiểu bài của học sinh sau mỗi tiết học, giáo viên cũng chỉ có thể kiểm tra một vài học sinh; nhưng ở mô hình này, tất cả học sinh đều được các bạn khác trong nhóm kiểm tra nên không xảy ra tình trạng “bị bỏ rơi”.
 	+ Chất lượng học tập tại các lớp học VNEN: học sinh phát huy được “5 tự”: tự học, tự sáng tạo, tự tin, tự giác, tự chủ. Đảm bảo mục tiêu: chuyển giáo dục sang tự giáo dục; việc dạy của giáo viên sang thành việc học của học sinh; dạy học theo lớp chuyển thành học theo nhóm và học theo thầy thành học theo sách. Học sinh phát huy tốt kỹ năng: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
-Thực hiện chương trình VNEN mở ra cơ hội để sự phối hợp nhà trường với các đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và cộng đồng xã hội chặt chẽ hơn. Phụ huynh trực tiếp tham gia giáo dục con em mình, trực tiếp tham gia dạy con em mình thông qua việc thực hành kỹ năng của các em. Nhà trường thường xuyên liên lạc và phối hợp với phụ huynh và các tổ chức xã hội, vấn đề xã hội hóa giáo dục tiến hành rất tốt. Dư luận và phụ huynh đồng tình, ủng hộ và mong muốn tham gia vào công việc chung của nhà trường, của lớp để thể hiện trách nhiệm. Vì vậy, công tác xã hội hóa quá trình giáo dục không cần hô hào mà đã trở thành nhu cầu tự thân. Rất nhiều hiệu ứng tích cực từ các lớp học VNEN đã tạo ra không khí lao động sáng tạo, điều mà trước đây ở mô hình dạy học hiện hành là không thể có được.
-Trong cuộc thi giáo viên dạy giỏi cấp tiểu học huyện Yên Khánh năm học 2015 – 2016, trường tiểu học Khánh Cư có 2 đồng chí giáo viên đăng ký dự thi, trong đó một đồng chí giáo viên thực hiện dạy theo mô hình trường tiểu học mới VNEN đoạt giải Nhì và một đồng chí thực hiện dạy áp dụng thành tố VNEN đoạt giải Nhất. Toàn toàn đoạt cờ Nhất. Đó là vinh dự và đồng thời cũng là thành quả nỗ lực của tập thể Sư phạm nhà trường trong những năm đầu thực hiện định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29/TW của Trung ương Đảng.
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của đề tài:
- Mô hình VNEN làm thay đổi nhà trường: Lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm; Đưa ra một chương trình học phong phú và bổ ích; Thúc đẩy việc học tập của học sinh. Giúp học sinh tự tin, biết cách suy nghĩ; Biết cộng tác, hợp tác với mọi người; Có kĩ năng làm việc nhóm; Biết quan tâm, có trách nhiệm trong các hoạt động; Biết phấn đấu, làm chủ quá trình học tập của mình; Có nhiều kĩ năng trong giao tiếp và kĩ năng sống;
- Mô hình VNEN làm thay đổi quy trình sư phạm của giáo viên: Nghiệp vụ sư phạm theo hướng đổi mới được nâng cao hơn; Có kĩ năng điều hành các hoạt động dạy học; Biết cộng tác theo xu hướng tích cực trong giáo dục; Biết quan tâm và hỗ trợ đồng nghiệp;
 	- Đối với cha mẹ học sinh, cộng đồng : Có trách nhiệm và tham gia với nhà trường nhiều hơn; Hỗ trợ các hoạt động cụ thể cho nhà trường; Được tiếp nhận, bổ sung tri thức từ nhà trường thông qua học sinh;
Việc dạy – học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN là một bước chuyển mạnh mẽ của việc thực hiện đổi mới giáo dục nói chung và là bước chuyển mạnh mẽ của việc thực hiện đổi mới phương pháp giảng dạy nói riêng.
2. Bài học kinh nghiệm:
Mọi ý tưởng canh tân hay đổi mới phương pháp dạy học suy cho cùng đều là tìm cách chuyển quá trình thuyết trình quá trình thuyết trình một cách áp đặt của người dạy thành quá trình tự học, tự tìm tòi, khám phá của người học. Trong đó, sự trải nghiệm và tự kiến tạo kiến thức cho bản thân của người học có vai trò hàng đầu. Những nỗ lực cá nhân của học sinh là trung tâm của quá trình giáo dục. Người học phải tự tạo dựng sự hiểu biết của riêng mình là chủ yếu chứ không chỉ đơn giản là tiếp thu một cách thụ động từ môi trường bên ngoài. Người giáo viên phải biết khéo léo đặt vấn đề và tổ chức môi trường sư phạm cho học sinh tự tìm tòi, khám phá, phát hiện, trong đó coi trọng việc học hợp tác, làm việc theo nhóm để giải quyết vấn đề. 
Vì vậy, trong công tác dạy – học nói chung và dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN nói riêng, muốn đảm bảo có chất lượng thì:
- Đội ngũ giáo viên cần thực sự có trách nhiệm, nhiệt tình, tâm huyết, cầu thị và ham học hỏi; Mỗi giáo viên cần hiểu thấu đáo cơ sở khoa học và thực tiễn, ý đồ soạn thảo và vận dụng của tài liệu Hướng dẫn học. Chỉ khi hiểu thấu đáo bản chất của mô hình trường học VNEN thì giáo viên mới đủ tự tin và bản lĩnh để linh hoạt triển khai dạy học hiệu quả. 
- Cần có sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của lãnh đạo nhà trường; 
- Có sự phối kết hợp chặt chẽ của Hội cha mẹ học sinh và cộng đồng;
- Mỗi giáo viên cần phải ý thức sâu sắc về sự tự học, tự bồi dưỡng, nỗ lực trong tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo, vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế của lớp mình phụ trách.
3. Hiệu quả Kinh tế, xã hội đạt được:
Với những giải pháp đã thực hiện trong công tác chỉ đạo dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN được áp dụng trong năm học qua đã đem đến cho đội ngũ nhà trường nhận thức mới về dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN. Từ đó, giúp cho mỗi người nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn được giao. 
Việc áp dụng thực hiện dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN của nhà trường sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực trong công tác giáo dục toàn diện. Đó cũng là những lợi ích mang tính xã hội lớn lao mà mỗi nhà trường luôn phấn đấu.
4. Điều kiện áp dụng:
Với những giải pháp trên, có thể áp dụng vào tất cả các nhà trường tiểu học trên các vùng miền khi triển khai dạy học theo mô hình VNEN. 
5. Một số ý kiến đề xuất và khuyến nghị:	
- Phòng Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục nhân rộng việc tổ chức dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN ở nhiều đơn vị hơn nữa để ưu điểm của mô hình này được lan tỏa rộng rãi.
- Bộ Giáo dục và đào tạo tiếp tục điều chỉnh tài liệu Hướng dẫn học cho phù hợp hơn với thực tiễn nhận thức của học sinh; 
- Mô hình VNEN sẽ là mô hình dạy học của tương lai, góp phần đưa giáo dục Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Qua quá trình nghiên cứu, chỉ đạo việc thực hiện dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN cũng như qua kinh nghiệm thực tiễn chỉ đạo của bản thân, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp mang tính chủ quan của cá nhân; tuy nhiên với giới hạn nhận thức của mình, chắc chắn đề tài còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự góp ý của quý đồng nghiệp và cấp trên để đề tài được hoàn thiện và mang tính thực tiễn cao hơn .
Tác giả
	Đoàn Thị Lâm Phương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. 2. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, Tập 1 - NXBGDVN
3. Tài liệu tập huấn: Dạy học theo mô hình trường học mới, Tập 2 - NXBGDVN
4. Tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới - NXBGDVN
5. Các phương pháp dạy học hiệu quả. - NXBDGVN.
6. Hỏi đáp về phương pháp dạy học ở Tiểu học – NXBGDVN
7.Tăng cường năng lực dạy học của giáo viên – NXBGDVN
8. Trang website: http//tieuhoc.moet.gov.vn
MỤC LỤC
STT
MỤC
TRANG
1
I. TÊN SÁNG KIẾN
1
2
II.TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
1
3
III. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 
1
4
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1
5
1. MỞ ĐẦU
1
6
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 
2
7
3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
3
8
4. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
4
9
5. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5
10
6. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5
11
7. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5
12
B. NỘI DUNG
5
13
1. GIẢI PHÁP CŨ THƯỜNG LÀM
5
14
2. GIẢI PHÁP MƠI CẢI TIẾN
6
15
2.1. Một vài nét về mô hình “Trường học mới” (VNEN)
6
16
2. 2. Một vài nét về tình hình nhà trường
7
17
2.3. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả dạy học theo mô hình trường tiểu học mới VNEN
8
18
2.4. Kết quả
15
19
C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17
20
1. Ý nghĩa của đề tài
17
21
2. Bài học kinh nghiệm
17
22
3. Hiệu quả kinh tế, xã hội đạt được
18
23
4. Điều kiện áp dụng
19
24
5. Một số ý kiến đề xuất và khuyến nghị
19
25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
20

File đính kèm:

  • doc1. PGD YK Mot so giai phap chi dao nang cao chat luong day hoc theo mo hinh truong tieu hoc moi VNEN.doc
Sáng Kiến Liên Quan