Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh Lớp 4 học môn Khoa học - Lê Thị Khánh Ly

Thực trạng của vấn đề mà đề tài cần giải quyết.

 1.1. Đối với giáo viên:

 Điều kiện phụ huynh học sinh của một xã vùng cao, kinh tế còn nghèo, truyền thống hiếu học còn thấp, sự phối hợp chưa tốt.

 Giáo viên dành thời gian để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh chưa nhiều.

Đối với học sinh:

 Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình, chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ, tìm tòi cho mình những phương pháp học đúng để biến tri thức của thầy thành của mình. Cho nên sau khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức bài học, nhanh quên và kĩ năng vận dụng kiến thức vào cuộc sống cũng như giải quyết các vấn đề hằng ngày chưa tốt.

 Nhiều gia đình, phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học tập của con em.

Năng lực tư duy còn nhiều hạn chế nhất là với những học sinh yếu kĩ năng nên rất nhiều em chưa hình thành được vốn kỹ năng sống cần thiết cho bản thân.

Qua bảng khảo sát trên, tỉ lệ học sinh hoàn thành thành và hoàn thành tốt kiến thức môn Khoa học chưa cao, trong khi đó kỹ năng vận dụng kiến thức của một số em còn nhiều hạn chế.

doc27 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 2394 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh Lớp 4 học môn Khoa học - Lê Thị Khánh Ly", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i về những tính chất của nước được phát hiện trong thí nghiệm này. 
- Kết luận : ... nước trong suốt, không màu, không mùi, không vị. 
Lưu ý giáo dục : ... nếu không biết chắc một chất nào đó có độc hay không, tuyệt đối không được ngửi và nhất là không được nếm. 
Thí nghiệm 2 : Phát hiện hình dạng của nước 
— Bước 1. Xác định mục đích của thí nghiệm.
Học sinh biết dự đoán, nêu cách tiến hành và tiến hành làm thí nghiệm tìm hiểu về hình dạng của nước. 
— Bước 2. Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.
Chia lớp thành các nhóm nhỏ thảo luận. 
+ Yêu cầu các nhóm đem chai, lọ có hình dạng khác nhau bằng thủy tinh hoặc nhựa để lên bàn. 
+ Yêu cầu quan sát 1 cái chai hoặc cốcàđặt chai hoặc cốc đó ở vị trí khác nhau (nằm ngang hoặc nằm dọc). 
+ Kết luận : ... chai, cốc có hình dạng nhất định.
Tiến hành thí nghiệm. 
+ Các nhóm thảo luận đưa ra dự đoán về hình dạng của nước. 
— Bước 3. Tiến hành thí nghiệm.
- Tiến hành thí nghiệm để kiểm tra dự đoán thí nghiệm của nhóm mình. 
- Ghi nhanh kết quả thí nghiệm lên bảng báo cáo của nhóm. 
- Vài nhóm trình bày cách tiến hành thí nghiệm. 
— Bước 4. Phân tích kết quả và kết luận. 
- Thống nhất, đối chiếu dự đoán thí nghiệm với kết quả thí nghiệm. 
- Rút ra kết luận về hình dạng của nước : nước không có hình dạng nhất định. 
Hoặc một số ví dụ khác như : 
Bài 25 - Nước bị ô nhiễm – trang 52. 
*Thí nghiệm : 
— Bước 1. Xác định mục đích của thí nghiệm.
 Học sinh phân biệt được đặc điểm chính của nước sạch và nước bị ô nhiễm. 
— Bước 2. Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm.
- Chia lớp thành các nhóm nhỏ. 
- Nhóm trưởng báo cáo việc chuẩn bị các đồ dùng để làm thí nghiệm. 
- Yêu cầu các nhóm thảo luận và đưa ra các tiêu chuẩn về nước sạch và nước bị ô nhiễm theo chủ quan của các em (HS không mở SGK). 
- Thư kí tổng hợp ghi vào bảng nhóm. 
Tiêu chuẩn đánh giá 
Nước bị ô nhiễm
Nước sạch 
1. Màu 
...
...
2. Mùi 
...
...
3. ... 
...
...
— Bước 3. Tiến hành thí nghiệm.
- Nhóm trưởng điều khiển các bạn tiến hành lọc nước. 
- GV kiểm tra và hướng dẫn thêm cho các em trong quá trình tiến hành làm thí nghiệm.
- Thống nhất ý kiến ghi vào bảng nhóm. 
— Bước 4. Phân tích kết quả và kết luận. 
- Đại diện nhóm trình bày kết quả thí nghiệm.
- Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. 
- GV yêu cầu các nhóm mở SGK/tr 53 đối chiếu kết quả. Nếu nhóm nào ra kết quả khác, GV yêu cầu các em tìm nguyên nhân, xem tiến trình làm việc của nhóm bị nhầm lẫn ở đâu... 
- GV gọi một số HS nói về những đặc điểm của nước sạch và nước không sạch được phát hiện trong thí nghiệm này. 
- Kết luận : (Như mục Bạn cần biết SGK/tr 53) 
Bài 30 - Làm thế nào để biết có không khí ? – trang 62. 
Các em sẽ làm thí nghiệm để chứng minh không khí có ở khắp nơi cả trong những chỗ trống của mọi vật. 
Bài 31 - Không khí có những tính chất gì ? – trang 64. 
*Mục tiêu : 
- HS làm thí nghiệm để biết không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra. 
- Nêu được ví dụ về việc ứng dụng một số tính chất của không khí trong đời sống. 
*Cách tiến hành :
- Chia nhóm.
- Yêu cầu HS đọc mục Quan sát trang 65 SGK.
- Mô tả hiện tượng xảy ra ở hình 2b, 2c và sử dụng các từ giãn ra, nén lại để nói về tính chất của không khí qua thí nghiệm này. 
- GV hỏi-lớp trả lời tiếp 2 câu hỏi SGK.
- Thực hành, thí nghiệm : bơm hơi quả bóng, bơm hơi bánh xe đạp (nếu có).
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả thực hành của nhóm. Các nhóm khác nhận xét, bổ sung. 
- Kết luận: không khí có thể bị nén lại hoặc giãn ra. 
Một số bài dạy khác như : 
Bài 32 - Không khí gồm những thành phần nào ? – trang 66. 
HS làm thí nghiệm xác định hai thành phần chính của không khí là khí ô-xy duy trì sự cháy và khí ni-tơ không duy trì sự cháy.
Bài 35 - Không khí cần cho sự cháy – trang 70. 
 Các em sẽ dự đoán và làm thí nghiệm chứng minh càng có nhiều không khí thì càng có nhiều ô-xy để duy trì sự cháy được lâu hơn; muốn sự cháy diễn ra lâu hơn thì không khí phải được lưu thông.
Bài 41 - Âm thanh – trang 82. 
Làm thí nghiệm chứng minh về sự liên hệ giữa rung động và sự phát ra âm thanh.
Bài 45 - Ánh sáng – trang 90. 
Các em sẽ cùng làm thí nghiệm chứng tỏ ánh sáng truyền theo đường thẳng, chứng tỏ mắt chỉ nhìn thấy một vật khi có ánh sáng từ vật đó đi tới mắt và phân biệt được vật tự phát sáng và vật được chiếu sáng.
Bài 46 - Bóng tối – trang 92.
HS dự đoán và làm thí nghiệm để biết được vị trí, hình dạng của bóng tối, bóng tối xuất hiện phía sau vật cản sáng khi được chiếu sáng, . 
Bài 50 - Nóng, lạnh và nhiệt độ - trang 100. 
Biết đo nhiệt độ cơ thể người; nhiệt độ của hơi nước đang sôi; nhiệt độ của nước đá đang tan.
Bài 52 - Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt – trang 104. 
Sau thí nghiệm các em sẽ lí giải việc sử dụng các chất dẫn nhiệt, các chất cách nhiệt và sử dụng hợp lí trong những trường hợp đơn giản, gần gũi. Biết được những vật dẫn nhiệt tốt và vật dẫn nhiệt kém.
Trước đây, từ những nhận thức của các em học sinh không đồng đều nên tình trạng một số học sinh khó khăn trong học tập thì quá trình đàm thoại để lĩnh hội kiến thức làm cho các em không đủ tự tin để có thể tham gia trả lời câu hỏi, thậm chí có em còn nản lòng, chán học.
Bằng hình thức tổ chức này, tôi thấy các em đã mạnh dạn hơn, chủ động hơn khi trình bày những gì mình quan sát được từ cuộc sống xung quanh. Tôi có thể dễ dàng kiểm tra được việc nắm bắt bài học của các em, sự tự tin, mạng dạn trong giao tiếp đến đâu, để từ đó tôi có sự điều chỉnh phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học của mình cho phù hợp hơn trong những giờ dạy học môn Khoa học.
2.4. Giải pháp 4. Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học.
Nội dung chương trình môn khoa học lớp 4 có tất cả 3 chủ đề :
Chủ đề 1: Con người và sức khỏe bao gồm các mạch nội dung: Trao đổi chất ở người ; Dinh dưỡng ; phòng bệnh ; An toàn trong cuộc sống .
Chủ đề 2: Vật chất và năng lượng với các mạch nội dung: Nước ; Không khí ; Âm thanh; Ánh sáng ; nhiệt .
Chủ đề 3: Thực vật và động vật với các mạch chủ nội dung: Trao đổi chất ở thực vật ; Trao đổi chất ở động vật ; Chuỗi thức ăn trong tự nhiên.
 Khi đã nắm chắc các chủ đề và các mạch nội dung của chương trình sách giáo khoa môn khoa học lớp 4, tôi kết hợp sử dụng các phương pháp: Trình bày, hỏi đáp, thảo luận, trò chơi, đóng vai; động não, quan sát, thí nghiệm, thực hành, khăn trải bàn, bàn tạy nặn bột,.Trong mỗi tiết học cần phối hợp nhiều phương pháp khác nhau một cách linh hoạt sáng tạo theo hướng giảm sự can thiệp và quyết định của giáo viên và tăng cường sự tham gia của học sinh vào các hoạt động tìm tòi, phát hiện ra các kiến thức mới. Trong đó, GV cần đặc biệt lưu ý tới việc tổ chức cho học sinh thực hiện các hoạt động khám phá nhằm khêu gợi sự tò mò khoa học, thói quen đặt câu hỏi, tìm câu giải thích khi các em khi các em được tiếp cận với thực tế xung quanh. Tổ chức cho các em tập giải quyết các vấn đề đơn giản gắn liền với tình huống có ý nghĩa, học sinh sẽ có dịp vận dụng những kiến thức đã học và cuộc sống một cách phù hợp .
 Tổ chức học sinh làm việc theo cặp (nhóm 2 HS)và nhóm nhỏ (3 HS) sẽ giúp các em có nhiều cơ hội nói lên những ý kiến của mình, giúp các em được rèn luyện khả năng diễn đạt, giao tiếp và hợp tác trong công việc.
 Không có phương pháp vạn năng chung cho mọi hoạt động, ứng với mỗi mục đích nào đó là có một phương pháp thích hợp. Vì vậy tính có mục đích của phương pháp là nét đặc trưng cơ bản nổi bật của nó. Ngoài tính mục đích phương pháp còn chịu tác động trực tiếp của nội dung. Nội dung nào phương pháp đó, không có phương pháp vạn năng ứng với nội dung. Sự thống nhất của nội dung với phương pháp được thể hiện ở lôgíc phát triển của đối tượng nghiên cứu vì vậy việc lựa chọn phương pháp dạy học cho một môn học cần phải nghiên cứu đặc điểm riêng biệt của môn học đó, nội dung cụ thể của nó để lựa chọn các phương pháp thích hợp.
 Phương pháp dạy học khoa học thực chất là thông qua sử lí sư phạm để chuyển phương pháp nhận thức khoa học thành phương pháp dạy học khoa học. 
 Như vậy muốn tìm hiểu những nét đặc trưng của phương pháp dạy học khoa học ta cần nắm vững nét bản chất của bản thân phương pháp nhận thức khoa học. 
 Khoa học là một môn học thực nghiệm và lí thuyết, đặc trưng này quyết định bản chất của phương pháp nhận thức khoa học.
 Bản chất của phương pháp nhận thức khoa học là sự kết hợp thực nghiệm khoa học và tư duy lí thuyết, đề cao vai trò của sự chính xác . 
 Phương pháp dạy học khoa học phải tuân theo những quy luật chung của phương pháp dạy học đồng thời phản ánh được phương pháp nhận thức khoa học. Vì vậy phương pháp dạy học khoa học có những nét đặc trưng riêng đó là phương pháp truyền đạt có lập luận trên cơ sở thí nghiệm – trực quan, nghĩa là có sự kết hợp thống nhất phương pháp thực nghiệm – thực hành với tư duy khái niệm.
 Khi bắt đầu dạy khoa học phải xuất phát từ trực quan sinh động để đi đến hình thành các khái niệm trừu tượng của khoa học, càng lên lớp cao thì càng phải cần rèn luyện cho học sinh sử dụng khái niệm như công cụ của tư duy.
 Như vậy việc dạy học khoa học phải sử dụng hệ thống phương pháp có kết hợp biện chứng thí nghiệm – thực hành với tư duy lí luận, vận dụng mô hình trong quá trình chiếm lĩnh kiến thức khoa học. Trong quá trình sử dụng phương pháp dạy học khoa học, giáo viên phải chú ý đến quy luật chuyển phương pháp nhận thức khoa học của SGK thông qua xử lí lí luận dạy học để biến thành phương pháp nhận thức khoa học của học sinh. Đồng thời cần chú ý tới mặt khác quan và chủ quan của phương pháp thì mới có hiệu quả trong việc sử dụng.
 Phương pháp dạy học khoa học rất đa dạng và ngày càng được sáng tạo thêm trong thực tiễn giảng dạy. Trong giảng dạy khoa học chúng ta cũng cần bắt kịp trào lưu đổi mới phương pháp dạy học khoa học, chấm dứt tình trạng dạy và học theo lối giáo điều không có thí nghiệm, không có đồ dùng trực quan .  
 Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy rằng việc ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn khoa học ở tiểu học trong đó phương pháp thí nghiệm thực hành được sử dụng khá nhiều .
 Sử dụng thí nghiệm để dạy học tích cực là phương pháp đặc thù của các môn khoa học thực nghiệm trong đó nhất là môn khoa học. Trong trường tiểu học sử dụng thí nghiệm để dạy học tích cực được thực hiện theo những cách sau:
- Thí nghiệm để nêu vấn đề hoặc làm xuất hiện vấn đề.
- Thí nghiệm để giải quyết vấn đề đặt ra: thí nghiệm nghiên cứu, thí nghiệm kiểm tra giả thuyết hay dự đoán.
- Thí nghiệm chứng minh cho vấn đề đã được khẳng định.
- Thí nghiệm thực hành: củng cố lí thuyết, rèn kĩ năng thực hành.
- Thí nghiệm trong bài tập thực nghiệm.
Phương pháp dạy học sử dụng thí nghiệm được sử dụng trong phần lớn các bài trong chương trình khoa học ở tiểu học.
2.5. Giải pháp 5. Tăng cường các hoạt động dạy học trải nghiệm gắn với thực tế cuộc sống.
 Dạy học trải nghiệm là một phương pháp, trong đó GV tổ chức cho HS được hoạt động, được thực hành, được trải nghiệm, từ đó HS chủ động tiếp thu tri thức, nội dung bài học dựa trên vốn kinh nghiệm và hiểu biết của mình, từ đó tạo hứng thú ham thích học tập và khám phá khoa học của học sinh.
      Ở lớp 4, phần vô cơ được thể hiện qua chủ đề “Vật chất và năng lượng”. Nội dung này được thể hiện nhiều là qua các thí nghiệm, vì vậy khi giảng dạy, giáo viên cần đặc biệt quan tâm đến việc làm thí nghiệm.
 * Phương pháp thí nghiệm có tác dụng :
+ Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng, sự vật tự nhiện.
+ Thí nghiệm được sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế các em sẽ hiểu sâu nhớ lâu.
+ Rèn luyện cho học sinh một số kĩ năng: đặt thí nghiệm, lắp ráp dụng cụ thí nghiệm, quan sát diễn biến thí nghiệm, ...
* Để dạy học theo phương pháp thí nghiệm thông thường cần tuân theo các bước sau:
- Xác định mục đích của thí nghiệm: Các thí nghiệm trong chương trình khoa học 4 có thể phân thành 3 loại chính: Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả; Loại nghiên cứu điều kiện (cái này là điều kiện của cái kia hoặc hiện tượng kia); Loại nghiên cứu tính chất của một vật.
- Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm: Liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành thí nghiệm. Vạch kế hoạch cụ thể (làm gì trước, làm gì sau): Thực hiện thao tác gì?  Trên vật nào? Quan sát dấu hiệu gì?  Ở đâu?  Bằng giác quan nào hoặc phương tiện nào?
- Bố trí, lắp ráp và làm thí nghiệm theo các bước đã vạch ra.
* Khi làm thí nghiệm, giáo viên cần nắm vững và thực hiện các yêu cầu sau:
+  Học sinh phải chọn ra được một số yếu tố riêng có thể khống chế được để nghiên cứu hoặc phải tác động lên hiện tượng, sự vật cần nghiên cứu.
+ Học sinh cần phải theo dõi, quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm.
+ Học sinh cần biết thiết lập các mối quan hệ (nguyên nhân - kết quả) giải thích các kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận.
+ Các điều kiện và quá trình được kiểm soát là thiết yếu đối với một số thí nghiệm.
+ Chú ý đảm bảo an toàn cho học sinh khi làm thí nghiệm.
 Đối với mỗi thí nghiệm yêu cầu học sinh thực hiện đúng theo các bước sau:
Chuẩn bị dụng cụ.
Tiến hành thí nghiệm.
Quan sát thí nghiệm.
Giải thích thí nghiệm
Tóm lại : Xuất phát từ những yêu cầu đổi mới, từ hoàn cảnh cụ thể của xã hội, của giáo dục nhà trường, của gia đình, vị trí của giáo viên trong công tác giáo dục ở trường học có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Vấn đề luôn đặt ra là giáo viên phải thực hiện tốt công tác giáo dục và cần xác định một cơ chế hoạt động về quyền hạn, trách nhiệm cho phù hợp với thực tế, phải có năng lực của một nhà sư phạm. Vì vậy buộc giáo viên phải tự hoàn thiện mình trước khi hoàn thiện cho học sinh. 
Từ một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học mà tôi đã thực hiện trên, tôi thấy ý thức, thái độ học của các em sôi nổi, hào hứng, tích cực và mạnh dạn hơn đầu năm học rất nhiều. Hình thành được cho các em thói quen học tập, tự học và tự điều chỉnh phương pháp học của mình, biết xây dựng nề nếp hoạt động nhóm, thi đua chuẩn bị bài và tự giác phát biểu xây dựng bài rất chu đáo. 
3. Kết quả đạt được
	Trên đây tôi đã trình bày một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học. Với cách làm này chất lượng môn Khoa học của lớp tôi giảng dạy đã được nâng lên rõ rệt. Nhiều em từ chỗ chưa nắm được vào đầu năm học đã biết vận dụng các kiến thức học được một cách thành thạo, chắc chắn.
 Kết quả đạt được như sau:
 Sau khi áp dụng các giải pháp đã nghiên cứu vào dạy học môn Khoa học tại lớp 4B, kết quả khảo sát môn học cuối học kỳ 1 như sau: 
Số lượng 
Chưa hoàn thành
Hoàn thành
Hoàn thành tốt
SL
%
SL
%
SL
%
17
0
0
9
51,3
8
48,7
Căn cứ vào kết quả trên, so với đầu năm học đến thời điểm cuối học kì 1 kĩ năng hiểu và vận dụng kiến thức môn Khoa học của học sinh đã tiến bộ hẳn. Số lượng học sinh hoàn thành và hoàn thành tốt khá cao, không còn học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học.
 Kết quả trên cho thấy “Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học” mà tôi đã triển khai đã đạt được hiệu quả tốt và mang tính khả thi cao.
	Thông qua dạy học, tôi nhận ra rằng dạy - học Khoa học cần nắm vững những cơ sở lí luận và phương pháp luận của nó khi đó giáo viên mới hiểu được ý đồ lựa chọn nội dung cụ thể ở các bài, của tác giả Sách giáo khoa cũng như quy trình và phương pháp học từng bài trong Sách giáo khoa, Chuẩn kiến thức kĩ năng ,.....Từ đó tổ chức, hướng dẫn và điều khiển tốt mọi hoạt động của mình, của học sinh, tạo ra chất lượng và hiệu quả giáo dục cao.
 Muốn làm được như vậy giáo viên phải được trang bị những tri thức về phương pháp dạy học tích cực và tạo được điều kiện để các em hoàn thành những kĩ năng cần thiết của phương pháp dạy học này. Tuỳ từng bài mà giáo viên lựa chọn áp dụng những biện pháp phù hợp để làm thế nào cho giờ học Khoa học có hứng thú và đạt kết quả cao nhất.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài.
Qua nhiều năm thực hiện các biện pháp như đã trình bày vào thực tế giảng dạy tại trường, tôi nhận thấy giờ học Khoa học được các em đón nhận rất hồ hởi. Nhiều tiết học đã trở thành sân chơi lí thú. Thông qua việc chuẩn bị bài, các hoạt động nhóm, thực hành thí nghiệm, quan sát tranh ảnh,... kiến thức bài học được các em tiếp nhận một cách rất tự nhiên, hiệu quả. 
	Bên cạnh những kết quả đạt được trong việc tạo hứng thú cho các em khi tham gia học môn Khoa học, những hình thức phương pháp tổ chức như trên đã dần dần hình thành ở các em tính năng động, mạnh dạn trước tập thể. Các em biết phối hợp nhau trong các hoạt động nhóm, biết quan sát môi trường xung quanh để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Từ thái độ học tập tích cực đối với môn Khoa học, giờ đây đã tác động rất lớn đến các môn học khác. Các em biết tự nhận thức những mặt mạnh, mặt yếu của mình, cũng như về vị trí của mình trong tập thể, có khả năng sử dụng các kĩ năng sống khác một cách có hiệu quả. 
Học sinh khó khăn theo thống kê đầu năm đã giảm, các em là học sinh lười học có nhiều tiến bộ. Nhiều năm liền không có học sinh lưu ban, các em hoàn thành Chương trình lớp học 100%. Không có học sinh bỏ học. 
2. Kiến nghị - Đề xuất 
Qua nghiên cứu và thực hiện đề tài Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học, tôi rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn như sau : 
1. Cần phải hướng dẫn kĩ cho học sinh việc chuẩn bị bài ở nhà và đồ dùng học tập thật chu đáo trước khi đến lớp. Giáo viên phải sưu tầm hình ảnh, tư liệu về tự nhiên-xã hội để làm cơ sở so sánh, chứng minh áp dụng cho từng bài giảng. Nghiên cứu kĩ mục tiêu bài dạy để có đồ dùng dạy học đúng yêu cầu, đúng trọng tâm.
2. Tổ chức dạy học dưới dạng các trò chơi học tập - Gameshow để thay đổi hình thức dạy học truyền thống thầy hỏi - trò trả lời khi kiểm tra bài cũ, truyền thụ kiến thức mới hay củng cố bài Thiết kế bài dạy phải chú ý đến đối tượng học sinh, phù hợp với từng phương pháp dạy học, lồng ghép giáo dục kĩ năng sống cho các em trong một số tình huống thường gặp.
3. Phải cho học sinh thực hành, thí nghiệm, thảo luận nhóm,  để tự tìm ra kiến thức trước khi giáo viên diễn giải, minh chứng. Phải phát huy tính tích cực học tập của học sinh (không gò ép, áp đặt) cần gợi ý, động viên để các em tự tin vào khả năng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo của mình. Sử dụng kĩ năng sống vốn có của mình để giải quyết một số sự cố có thể xảy ra trong quả trình thực hành-thí nghiệm. 
4. Giáo viên phải yêu nghề, yêu quý học sinh, cải tiến phương pháp và nhiệt tình giảng dạy. Luôn động viên, khuyến khích các em học tập, khen chê rõ ràng, không kì thị học sinh. Chú trọng đến đối tượng học sinh khó khăn. Bồi dưỡng nâng cao cho học sinh năng khiếu. Phải tạo được không khí học tập vui vẻ, nhẹ nhàng, hấp dẫn gây hứng thú học tập cho các em. Thường xuyên kiểm tra đánh giá cho các em bằng nhận xét. 
Khoa học là một môn học không có công thức, không có đáp số cụ thể giống như học Toán, học Tiếng Việt mà nó là môn học khá trừu tượng. Tuy nhiên lại rất gần gũi và rất cần thiết trong cuộc sống. 
Với Một số biện pháp tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 học môn Khoa học, mà tôi vừa trình bày, tôi hi vọng rằng các đồng nghiệp có thể vận dụng tốt vào công tác giảng dạy tại lớp mình, tạo được môi trường học tập thân thiện, tích cực, chủ động. Giúp các em có hứng thú khi đến trường, khi tham gia các hoạt động học tập cũng như sinh hoạt ngoại khóa, đồng thời giúp các em có kĩ năng sống tốt hơn trong các tình huống bất thường có thể xảy ra. 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_cho_hoc.doc
Sáng Kiến Liên Quan