Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4- Trường tiểu học Nậm Loỏng

1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:

Trong nhà trường Tiểu học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn cho các em kĩ năng giao tiếp. Đối với học sinh lớp 4 kĩ năng giao tiếp là kĩ năng rất cần thiết để các em sớm hòa nhập được với môi trường học tập. Và đây cũng là những yêu cầu mà các em cần phải có và đạt được trong quá trình đánh giá học sinh tiểu học.

Ông cha ta từ xã xưa đã từng nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Trong giao tiếp lời lẽ phải có sự lựa chọn, cân nhắc vì một khi đã nói ra thì không sao rút lại được. Chính vì thế để giúp học sinh có được ý thức nói năng rõ ràng, gãy gọn, đủ ý và phù hợp trong mọi tình huống là rất cần thiết.

 Khi giao tiếp các em cần mạnh dạn; trình bày rõ ràng, ngắn gọn; nói đúng nội dung cần trao đổi; ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng; ứng xử thân thiện, chia sẻ với mọi người; biết lắng nghe người khác, biết tranh thủ sự đồng thuận của thầy cô, bạn bè.

 

doc11 trang | Chia sẻ: binhthang88 | Lượt xem: 20745 | Lượt tải: 7Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4- Trường tiểu học Nậm Loỏng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ LAI CHÂU
TRƯỜNG TIỂU HỌC NẬM LOỎNG
THUYẾT MINH SÁNG KIẾN
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG GIAO TIẾP 
CHO HỌC SINH LỚP 4- TRƯỜNG TIỂU HỌC NẬM LOỎNG
Đồng tác giả: 
1. Nguyễn Thị Thanh 
Trình độ chuyên môn: Đại học tiểu học
Chức vụ: Giáo viên
2. Vàng Văn Tuyến
Trình độ chuyên môn: Đại học tiểu học
Chức vụ: giáo viên
Nơi công tác: Trường Tiểu học Nậm Loỏng
 - Thành phố Lai Châu- Tỉnh Lai Châu
 Thành phố Lai Châu, Ngày 20 tháng 2 năm 2017
THUYẾT MINH SÁNG KIẾN
I. THÔNG TIN CHUNG
1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4”.
2. Đồng tác giả.
STT
Họ và tên
Năm
sinh
Nơi thường trú
TĐ
CM
Chức vụ
Nơi làm việc
Điện thoại
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến
1
Nguyễn Thị Thanh
1978
Tổ 5- Phường Đoàn Kết
ĐH
TP
Trường THNL
0962472378
50 %
2
Vàng Văn Tuyến
1981
Tổ 1- Phường Đoàn Kết
ĐH
GV
Trường THNL
01636336801
50 %
3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Giáo dục tiểu học
4. Thời gian áp dụng sáng kiến: 
Áp dụng từ 09/2016 đến tháng 2/2017
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: 
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Nậm Loỏng
Địa chỉ: Bản Sùng Chô- xã Nậm Loỏng- Thành phố Lai Châu
Điện thoại: 02313878717
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
Trong nhà trường Tiểu học, bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn cho các em kĩ năng giao tiếp. Đối với học sinh lớp 4 kĩ năng giao tiếp là kĩ năng rất cần thiết để các em sớm hòa nhập được với môi trường học tập. Và đây cũng là những yêu cầu mà các em cần phải có và đạt được trong quá trình đánh giá học sinh tiểu học.
Ông cha ta từ xã xưa đã từng nói: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Trong giao tiếp lời lẽ phải có sự lựa chọn, cân nhắc vì một khi đã nói ra thì không sao rút lại được. Chính vì thế để giúp học sinh có được ý thức nói năng rõ ràng, gãy gọn, đủ ý và phù hợp trong mọi tình huống là rất cần thiết.
 	Khi giao tiếp các em cần mạnh dạn; trình bày rõ ràng, ngắn gọn; nói đúng nội dung cần trao đổi; ngôn ngữ phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng; ứng xử thân thiện, chia sẻ với mọi người; biết lắng nghe người khác, biết tranh thủ sự đồng thuận của thầy cô, bạn bè. 
Thông qua hoạt động giao tiếp các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ, nói đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri thức. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Khi đã có kĩ giao tiếp các em sẽ tự tin trước đám đông, truyền tải được đến với người nghe những gì mình muốn nói và chắc chắn rằng các em sẽ thành công trong nhiều lĩnh vực. 	
Trong thực tế hiện nay chúng ta thấy xã hội ngày càng phát triển nhưng kĩ năng giao tiếp của học sinh ngày càng giảm sút, sự đối lập này do đâu? Một câu hỏi được đặt ra cho tất cả người lớn, đặc biệt là cha mẹ và các thầy cô giáo những người thường xuyên gần gũi các em nhất.
Để giúp học sinh khắc phục được những hạn chế trong giao tiếp, để các em trở thành những học sinh phát triển một cách toàn diện dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, thích ứng với các tình huống xảy ra trong xã hội, và đặc biệt giúp các em có cơ hội bày tỏ niềm vui, chia sẻ những nỗi buồn với cha mẹ, thầy cô, bạn bè, những người xung quanh bằng chính ngôn ngữ và việc làm của chính mình, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4”.
2. Phạm vi triển khai thực hiện: 
Giáo viên, học sinh lớp 4 Trường Tiểu học Nậm Loỏng
3. Mô tả sáng kiến:
a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến:
Hiện trạng: 
Trong những năm gần đây, phần lớn trẻ em học sinh dân tộc đã học qua lớp mẫu giáo thực hiện chương trình làm quen tiếng Việt nhưng nhìn chung, vốn từ và kỹ năng nghe, nói của các em còn hết sức hạn hẹp. Cụ thể:
Về số lượng từ các em sử dụng được trong giao tiếp chỉ ở mức có thể nói được những lời nói đơn giản như chào cô, chào thầy, thưa cô, thưa thầy, cha, mẹ, ông bà hay các sự vật gần gũi như cái bàn, cái ghế, quyển sách, cái bút...; chỉ nghe và hiểu được những câu lệnh thường xuyên như ra chơi, vào lớp, ngồi xuống, đứng lên... Số lượng từ các em sử dụng chỉ ngang với một trẻ em miền xuôi ở khoảng 3 đến 4 tuổi. Với vốn từ ít ỏi như trên, các em thường chỉ diễn đạt một vấn đề bằng cách nói từng tiếng thay vì nói cả câu. Ví dụ: GV hỏi “Nhà em có mấy người?” Các em chỉ nói được “bốn”; hay GV hỏi “Em bé trong tranh đang làm gì?” các em chỉ trả lời được “vẽ”; trong khi đó, học sinh bình thường phải trả lời được “Thưa cô (thầy), em bé trong tranh đang vẽ tranh ạ!”.
Về phát âm: do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ và thổ âm nên các em học sinh dân tộc phát âm sai ở hầu hết dấu thanh và phần vần; một số âm đầu. Ví dụ: các tiếng có thanh /huyền, sắc, ngã, nặng/ thành thanh /không/ còn tiếng có thanh /không/ thành thanh /nặng/; tiếng có thanh /ngã/ thành thanh /sắc/; tiếng có vần /ơm/ thành /ơn/ (cơm thành cơn), âm /y/ thành âm /i/ (ay thành ai)... Lỗi phát âm này do ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ nên sẽ rất khó sửa (nếu không nói là không sửa được) nếu không được sửa chữa từ các lớp mầm non và lớp Một ở tiểu học.
Ưu nhược điểm của giải pháp cũ
Ưu điểm: Các em tương trợ lẫn nhau trong quá trình học tập là một việc làm hết sức bổ ích như câu tục ngữ “Học thầy không tày học bạn”
Trong quá trình học tập đua thầy, đua bạn sẽ giúp các em mạnh dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn luyện kỹ năng nói.
Sự giúp đỡ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp các em tự tin hơn trước lời phát biểu của mình.
Hạn chế và nguyên nhân:
 Thực tế cho thấy môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh dân tộc hạn hẹp và không thuần nhất: Trong khi học sinh bình thường được học tập, giao tiếp trong môi trường thuần tiếng Việt thì môi trường giao tiếp của các em học sinh dân tộc hết sức hạn hẹp và thiếu tính tích cực. Ở trường, khi học trên lớp, chủ yếu các em được nghe cô giáo giảng bài, được luyện đọc nhưng không hiểu nội dung bài đọc; được luyện viết  nhưng chỉ luyện để viết đúng con chữ mà không thể viết thành bài văn hoàn chỉnh được. Còn khi ra chơi, các em lại nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Về với gia đình và cộng đồng, các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân tộc, vốn TV tạm thời bị chìm vào dạng tiềm năng. Môi trường giao tiếp bằng TV bị hạn hẹp chính là nguyên nhân, là rào cản lớn nhất của sự hình thành kỹ năng sử dụng TV của các em học sinh dân tộc đẫn đến kĩ năng giao tiếp của các em cũng gặp khó khăn. 
b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: 
* Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ.
Tính mới: Với các biện pháp giáo dục linh hoạt giáo viên giúp học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Biết mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể, gần gũi trao đổi với cô giáo, bạn bè, bố mẹ, ... mạnh dạn đưa ra các ý kiến, thắc mắc trong học tập cũng như trong việc thực hiện các hoạt động chung của lớp.
Các em đã biết chia sẻ cảm xúc của mình với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, ... trong khi trò chuyện, tham gia các hoạt động tập thể.
Sự khác biệt: Với các giải pháp đã sử dụng trong đề tài người giáo viên vừa tổ chức cho học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp, có thể trình bày rõ ràng vấn đề muốn nói- là điều khó khăn với học sinh dân tộc Mông khi ngôn ngữ tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai, không phải là ngôn ngữ mẹ đẻ. 
Qua nhiều năm làm công tác giảng dạy ở khối 4 chúng tôi nhận thấy: Để học sinh có thể mạnh dạn hơn trong giao tiếp, có thể trình bày rõ ràng vấn đề muốn nói, nhằm đạt mục tiêu giáo dục toàn diện cần một số biện pháp sau.
Biện pháp 1: Hướng dẫn một số kĩ năng giao tiếp giữa thầy và trò, giữa trò với trò.
Để học sinh có kĩ năng giao tiếp tốt, ứng xử phù hợp trong từng tình huống cụ thể. Chúng tôi tiến hành quan sát học sinh và nhận thấy rằng trong giao tiếp hằng ngày của các em được phân chia thành 2 nhóm:
+ Nhóm có kĩ năng giao tiếp tương đối tốt	
+ Nhóm có kĩ năng giao tiếp chưa tốt.
	Chính vì vậy khi giảng dạy tại lớp, đặc biệt là trong khi tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và khi dạy học rèn kĩ năng sống chúng tôi luôn lựa chọn các tình huống phù hợp với 2 nhóm đối tượng. Qua đó đối với nhóm giao tiếp tương đối tốt có cơ hội tiếp tuc phát triển kĩ năng giao tiếp tốt hơn nữa,còn đối với nhóm đối tượng có kĩ năng giao tiếp chưa tốt được rèn luyện và phát triển kĩ năng của bản thân. Ngoài ra qua quá trình giao tiếp hằng ngày chúng tôi tiến hành sửa câu, sửa cách nói cho các em trong mọi lúc, trong giờ học hướng dẫn các em cách dặt câu hỏi đến cách trả lời.
	Ví dụ: khi học sinh đến lớp nhìn thấy cô giáo các em liền chào: “Chào cô ạ!” lúc này tôi liền sửa cho các em: “Em chào cô ạ !” và giải thích cho các em các em đó mới là câu chào đầy đủ thể hiện sự lễ phép của học trò đối với thầy cô giáo.
	Ví dụ: trong giờ học, khi đứng lên trả lời câu hỏi, có em nói trống không như:
	- Em không biết.
	- Có ạ.
	- Em không đi
	Đối với những trường hợp trả học sinh trả lời như trên chúng tôi hướng dẫn các em trước khi trả lời phải có “thưa cô, thưa thầy” trong khi giao tiếp với thầy cô đối với một số em nhút nhát ở trong lớp chúng tôi đưa luôn cả câu trả lời đầy đủ “Thưa cô, em không biết ạ!”, “Thưa cô, em có đi ạ!”, “Thưa cô, em không đi ạ!” 
	Ban đầu chúng tôi hướng dẫn các em nói theo lời của thầy cô. Tiếp theo chúng tôi tổ chức cho các em trải nhiệm thực tế bằng cách đóng vai, chơi các trò chơi. Qua việc được trải nghiệm các em rút ra được nhận xét lời nói đúng nên nói, lời nói sai không nên nói. Các em được tự mình sửa cách nói không nên nói thành cách nói ngược lại. 
	Qua việc được xem bạn đóng vai bằng những tình huống cụ thể, chúng tôi tiến hành đưa ra hệ thống câu hỏi như:
+ Qua trò chơi em thích cách nói của bạn nào? Vì sao em thích? 
+ Qua trò chơi em không thích cách nói của bạn nào? Vì sao em không thích? 
+ Nếu em là bạn em sẽ nói thế nào? 
Với cách tiến hành như trên các em học sinh ở hai lớp đã biết nói đầy đủ câu, biết thưa gửi khi trình bày nội dung, ứng xử phù hợp trong từng tình huống cụ thể đặc biệt là không còn hiện tượng nói trống không, xưng hô đúng mực khi giao tiếp giữa trò với thầy và giữa trò với trò. Bên cạnh đó qua việc được đóng vai đã tạo cho các em mạnh dạn hơn, nói to dõng dạc hơn khi đứng trước đám đông. 
Biện pháp 2: Rèn kỹ năng giao tiếp phù hợp, đúng chuẩn mực
Ở biện pháp 1 chúng tôi hướng dẫn bằng cách cho các em nói theo “mẫu câu” khi giao tiếp và bước đầu nhận định điều nên và không nên cư xử của từng học sinh trong các tình huống cụ thể ngoài ra với phương pháp đó cung cấp kiến thức ở mức độ đơn giản. Ở biện pháp này để rèn cho học sinh có kỹ năng giao tiếp thuần thục, phù hợp với chuẩn mực đạo đức. Qua quá trình trải nghiệm chúng tôi tiếp tục tiến hành cho học sinh đóng vai ở giai đoạn này khi đưa ra tình huống cụ thể học sinh được tự bàn bạc ở trong nhóm về các xử lý của từng nhân vật, sau đó các nhóm tự đóng vai để học sinh dưới lớp được quan sát. Để học sinh có được nhiều cách xử lý chúng tôi tiến hành cho học sinh thảo luận, tự trình bày ý kiến cá nhân trước tập thể dưới sự gợi ý của giáo viên để các em ứng xử phù hợp với chuẩn mực đạo đức. 
Khi được trải nghiệm, được bộc lộ cảm xúc, quá trình nhận thức của học sinh rất nhanh xong để các em có kỹ năng giao tiếp thuần thục thì quá trình trải nghiệm phải được lặp lại nhiều lần. Với đặc điểm này chúng tôi thường xuyên đưa ra các tình huống khác nhau nhưng có sự kết nối giữa các lượng kiến thức cũ và mới để vừa rèn cách ứng xử đã gặp và kết hợp cung cấp cách ứng xử mới. 
Bên cạch đó với tâm sinh lý học sinh dễ bộc lộ cảm xúc, thích được động viên với đặc điểm này chúng tôi tiến hành sử dụng phương pháp nêu gương. Đưa ra từng cách ứng xử hay, phù hợp cho học sinh cùng nghe. Giáo dục các em học tập bạn. Thường xuyên tuyên dương những em biết lễ phép với thầy cô giáo, thân thiện với bạn bè để các em cùng noi gương. Trong giai đoạn này chúng tôi tiến hành hướng dẫn học sinh ngoài việc biết nói lời hay thì còn làm thêm nhiều việc tốt để sửa chữa những khuyết điểm cho bạn đặc biệt là trong giao tiếp.
Ví dụ: Thấy 2 bạn đang nói chuyện với nhau xưng hô “ Mày- Tao” các em nên hướng dẫn bạn:
- Bạn không nên xưng Mày- Tao khi nói chuyện
- Bạn nên nói: “Cậu- Tớ”, “Mình- Tớ”
- Chúng mình là học sinh nên phải cư xử thân thiện với bạn
Cách này tuy đơn giản nhưng hiệu quả rất cao vì “Học thầy không tày học bạn” quá trình giao tiếp của học sinh với học sinh diễn ra nhiều hơn nên nếu học sinh biết tự sửa cho nhau sẽ thuận lợi hơn nhiều.
Qua các cuộc giao lưu và hoạt động ngoài giờ lên lớp các em được rèn luyện và hoàn thiện kỹ năng ứng xử, kỹ năng nói, kỹ năng trao đổi phù hợp, biết thể hiện cảm xúc, điệu bộ cử chỉ khi giao tiếp. Ban đầu các em còn ngại ngùng, chưa biết trình bày, nhưng với cách tiến hành như trên sau một thời gian chúng tôi nhận thấy đa số các em rất tự tin đứng trước tập thể giới thiệu về bản thân, sở thích của mình, mạnh dạn khi biểu diễn, biết nói cảm ơn xin lỗi trong từng tình huống cụ thể, biết thể hiện thái độ lễ phép với thầy cô, thân thiện với bạn bè.
Giải pháp 3: Tạo không khí tiết học sôi nổi, nhẹ nhàng, hấp dẫn
 Học sinh là người dân tộc thiểu số vốn dĩ rất nhút nhát, ngại giao tiếp với thầy cô giáo. Nhiều em khi thầy cô gọi đứng dậy trả lời chỉ đứng và im lặng vì hoặc là không hiểu được câu hỏi hoặc là không tự tin với những câu trả lời bằng tiếng phổ thông của mình do vốn tiếng Việt của các em còn hạn chế. Trong khi chương trình sách giáo khoa quá tải, chưa thật sự phù hợp với học sinh dân tộc thiểu số; giáo viên thì ôm đồm, tìm mọi cách để làm sao truyền đạt, chuyển tải hết những kiến thức trong sách giáo khoa đồng thời rèn cho các em thành thạo các dạng mà bài học đã đưa ra. Do đó tiết học thường rơi vào tình trạng hối hả nhưng trầm lặng, nặng nề, khô khan và thường diễn ra theo hướng một chiều. Vì vậy, muốn tiết dạy đạt hiệu quả cần tạo ra một không khí thật nhẹ nhàng, hấp dẫn. Đây là giải pháp đặc trưng trong quá trình giảng dạy đối với học sinh dân tộc thiểu số ở tất cả các bậc học đặc biệt là ở Tiểu học.
 Hiểu được tâm lý của học sinh dân tộc thiểu số, chúng tôi đã đổi mới phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh tùy theo các môn học nhưng đều chú trọng đến những yếu tố vừa truyền đạt kiến thức của bài học đồng thời tăng cường tiếng Việt bằng những trò chơi ở tất cả các môn học (chủ yếu là các trò chơi về ngôn ngữ, trò chơi trí tuệ sử dụng ngôn ngữ) như:
 - Đóng vai
 Đóng vai là một trong những phương pháp gây được hứng thú trong học tập cho học sinh (học mà chơi, chơi mà học), rèn tính tự tin, tinh thần đoàn kết đặc biệt đây cũng là điều kiện tốt để tăng cường tiếng Việt cho học sinh song để mang lại hiệu quả, giáo viên và học sinh phải đầu tư nhiều.
 Các em hào hứng tham gia, tiết học trở nên sôi động và hấp dẫn, hiệu quả của những tiết dạy này khá thành công, vốn tiếng Việt của các em cũng được cải thiện đáng kể.
 - Thảo luận theo nhóm
 Là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của học sinh. Thảo luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề khó khăn.
 Với những kết quả đạt được trong quá trình sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong những năm vừa qua mà đội ngũ giáo viên nhà trường đã áp dụng, nhiều em học sinh dân tộc thiểu số ở đây đã trở nên mạnh dạn, tự tin, vốn tiếng Việt của các em đã được cải thiện rất đáng kể. Các em đã có khả năng tự đặt ra những câu hỏi, đưa ra những ý kiến của mình. Việc giao tiếp của các em cũng dễ dàng hơn. Do vậy, chúng tôi luôn sử dụng phương pháp này vào giảng dạy nhằm làm cho tất cả học sinh được hoạt động, tạo không khí lớp học sôi động, hấp dẫn, các em tiếp thu bài cũng dễ dàng hơn, đặc biệt tạo điều kiện để các em bổ sung vốn tiếng Việt một cách hiệu quả. 
4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
Qua quá trình nghiên cứu áp dụng thực hiện sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4” trong thời gian áp dụng triển khai để tài tại khối lớp 4 trường tiểu học Nậm Loỏng năm học 2016- 2017 đã thu được kết quả như sau.
Năm học
TS
Thời điểm
Số học sinh nói mạch lạc, diễn đạt tốt
Số học sinh nói đủ ý
Số học sinh nói chưa đủ ý
Số học sinh nhút nhát, ít phát biểu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
    2016-2017
   (Trước khi áp dụng)
 42
 Đầu năm
5
10
15
12
    2016-2017
   (Sau khi áp dụng)
 42
 Cuối năm
10
20
10
2
Qua khảo sát đánh giá chúng tôi nhận thấy:
Đa số học sinh của 2 lớp đều có ý thức kỷ luật cao. Có tinh thần tự rèn luyện các kĩ năng mà giáo viên hướng dẫn. 
 Việc rèn kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tự phục vụ bản thân thực sự hữu ích đối với các em, vì việc giao tiếp, tự phục vụ bản thân các em thực hành hàng ngày, mọi lục, mọi nơi.
Việc thầy cô uốn nắn, giúp đỡ các em trong từng lời ăn, tiếng nói, từng việc làm, giúp các em trưởng thành nên rất nhiều. 
 Các em mạnh dạn trình bày ý kiến và mong muốn của mình trước tập thể, gần gũi trao đổi với cô giáo, bạn bè, bố mẹ,... mạnh dạn đưa ra các ý kiến, thắc mắc trong học tập cũng như trong việc thực hiện các hoạt động chung của lớp.
Các em đã biết chia sẻ cảm xúc của mình với bạn bè, thầy cô, cha mẹ, ...bằng rất nhiều hình thức; nói chuyện, vẽ tranh, các hoạt động tập thể.
5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:
Sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 4”. Sáng kiến có tính khả thi và có thể triển khai áp dụng hầu hết ở các trường tiểu học nói chung theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh, đáp ứng được mục tiêu của công tác giáo dục.
6. Các thông tin cần được bảo mật: Không
7. Kiến nghị, đề xuất:
a) Kiến nghị: Không
b) Đề xuất: Không
8. Tài liệu đính kèm: Không
Trên đây là nội dung, hiệu quả của sáng kiến do chúng tôi thực hiện không sao chép hoặc vi phạm bản quyền./.
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ 
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Thanh Vàng Văn Tuyến 

File đính kèm:

  • docSKKN_ren_ki_nang_giao_tiep_cho_HS_lop_45.doc
Sáng Kiến Liên Quan