Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Lớp 4
Thực trạng:
1.1. Thuận lợi:
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Đơn vị trường học nơi tôi công tác có môi trường giáo dục tốt, an toàn. Ban lãnh đạo nhà trường luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
Bên cạnh đó, bản thân tôi nhận được một tập thể học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với giáo viên. Chính vì thế bản thân luôn cố gắng làm sao rèn cho các em kỹ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo, phù hợp với một xu hướng phát triển của xã hội.
1.2. Khó khăn:
- Việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên và một bộ phận cha mẹ học sinh vẫn còn những hạn chế nhất định.
- Việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
- Đa phần cha mẹ học sinh luôn nóng vội trong việc dạy con; họ thường chỉ chú trọng đến việc con mình về nhà mà chưa đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm Toán thì lo lắng một cách thái quá. Ngoài ra, một số cha mẹ học sinh vì quá cưng yêu, chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kĩ năng tự phục vụ bản thân. Bên cạnh đó, một số cha mẹ học sinh vì bận nhiều công việc nên chưa có nhiều thiều thời gian quan tâm, giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết.
- Trong thực tế, vẫn còn có hiện tượng học sinh chưa ngoan, chưa lễ phép, .
- Nhiều học sinh còn rụt rè, chưa mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với thầy cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em ít có dịp trò chuyện, chia sẻ với người thân cũng như mọi người xung quanh .
và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi các em phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Không những thế, tôi còn khuyến khích các em cùng chia sẻ những cảm nhận, những suy nghĩ, những quan sát của mình với thầy, với bạn một cách thoải mái, tự nhiên không gò bó, áp đặt. Hoặc ở những giờ sinh hoạt lớp, giờ ra chơi bản thân cùng các em tham gia những trò chơi dân gian, trò chơi giúp các em phát triển trí tuệ (cờ vua, ô ăn quan), Ngoài ra, tôi cũng tranh thủ đọc sách, báo cho các em nghe trong mọi tình huống như những lúc sinh hoạt đầu giờ, trong giờ sinh hoạt lớp cuối tuần. Tăng cường kể cho các em nghe các câu chuyện cổ tích, câu chuyện trong bài tập đọc, bài thơ, để qua đó rèn luyện đạo đức cho các em, giúp các em hoàn thiện mình, dạy các em yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho các em qua hình thức kể chuyện bằng tranh, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng tư duy, thấu hiểu ở các em. Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc “Chuyện cổ tích về loài người” –Tiếng Việt lớp 4 (tập 2). Tôi đặt những câu hỏi gợi mở như: Trong “câu chuyện cổ tích” này, ai là người được sinh ra đầu tiên? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay mặt trời? Sau khi trẻ sinh ra, vì sao cần có ngay người mẹ? Bố giúp trẻ những gì? Thầy giáo giúp trẻ những gì? . Bên cạnh đó, để rèn kỹ năng tự phục vụ, biết lao động vừa sức, biết trang trí lớp học xanh –sạch –đẹp, giúp các em yêu trường, yêu lớp hơn, bản thân đã hướng dẫn các em vệ sinh lớp sạch sẽ, chăm sóc cây xanh của nhà trường hàng ngày. 2.4. Phát động thi đua, động viên, khen thưởng: Tôi luôn luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ, khen thưởng kịp thời để tạo sự hưng phấn, vui vẻ, phấn khởi, giúp các em có ý thức cao trong việc rèn luyện các kỹ năng sống. Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kỹ năng, ngay từ buổi họp cha mẹ học sinh đầu năm học, tôi đã xây dựng kế hoạch cụ thể rèn luyện cho các em học sinh lớp mình phụ trách. Trao đổi với Ban đại diện Cha mẹ học sinh của lớp cùng phối hợp và hỗ trợ một phần kinh phí để động viên, khen thưởng kịp thời các em, tạo cho các em có một động cơ tốt trong việc duy trì thực hiện. Bản thân tôi theo dõi hằng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ tay, trong tiết sinh hoạt cuối tuần cho các em bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được khen thưởng. Vì vậy, các em thi đua nhau “nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần nào cũng có rất nhiều em được tuyên dương, khen ngợi. Cuối mỗi đợt thi đua, tôi tổng kết một lần để khen thưởng những em đã đạt nhiều thành tích bằng những phần quà nhỏ. Các em rất vui và hãnh diện khi được nhận những món quà của thầy giáo tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng thực hiện tốt để được khen thưởng. Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả. Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin hơn trong cuộc sống. 2.5. Kết hợp các bậc cha mẹ học sinh hướng dẫn các em các kỹ năng sống cơ bản: Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em; tạo điều kiện tốt nhất cho các em vui chơi. Thầy cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có mục tiêu, ý tưởng để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động, sinh hoạt. Giáo viên cùng cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để hỗ trợ, giúp đỡ, khuyến khích, động viên các em thực hiện ý thích đó. Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ thì giáo viên, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích học nhạc thì tạo điều kiện để các em được tham gia các câu lạc bộ ở trường để các em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức: lễ khai giảng, các hội thi chào mừng 20/11, 26/3, 30/4, lễ tổng kết năm học, ... Giáo viên và cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống, cụ thể: các em được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống, ...). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nền nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, gần gũi, thân thiện, tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có thói quen tốt để hình thành kỹ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. 3. Điều kiện thực hiện: Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là nội dung rất quan trọng và cần thiết. Nó trang bị những kỹ năng cho các em để các em có được cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đồng thời giúp những em có thói quen chưa tốt và hành vi tiêu cực trở thành con ngoan, trò giỏi và là người có ích cho xã hội sau này. Để thực hiện đạt hiệu quả các biện pháp rèn và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, cần có những điều kiện sau: - Chọn những kỹ năng phù hợp, gần gũi với học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực hành kỹ năng sau khi tiếp cận. Ví dụ: thực hành kỹ năng: giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực trong giao tiếp với bạn, với thầy cô giáo, với ông bà –cha mẹ, với mọi người xung quanh, ... - Học sinh dự đoán các kỹ năng, yêu cầu của các kỹ năng cần đạt được sau khi học tiết học này. Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và học sinh. Học sinh đọc kĩ và nắm vững nội dung bài học, yêu cầu bài. - Gợi ý học sinh nêu các kỹ năng thông qua bài học. Giáo viên cho học sinh nêu các yêu cầu, kỹ năng sau khi đọc trước bài học. - Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học, từ đó xác định các kỹ năng cần đạt. Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kỹ năng cần đạt. - Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các kỹ năng sống cần đạt. Ví dụ: Bài yêu cầu gì? Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó? Trọng tâm bài ở chỗ nào? Em cần có kỹ năng gì để thực hiện các vấn đề đó? Sau khi đọc xong bài này em rút ra điều gì? Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hằng ngày khi gặp trường hợp như trong bài? ... - Giáo viên cần chuẩn bị một giáo án lồng ghép thật cẩn thận (có nêu ra cụ thể các kỹ năng học sinh cần đạt sau khi học bài này; các kỹ thuật dạy học sử dụng trong bài dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy, ...) III. TÍNH MỚI, TÍNH HIỆU QUẢ VÀ KHẢ THI, PHẠM VI ÁP DỤNG: 1. Tính mới: Điểm mới và nổi bật của sáng kiến là việc triển khai và tổ chức thực hiện các biện pháp một cách có hệ thống, chặt chẻ và rất phù hợp với điều kiện thực tế lớp học, của đơn vị. Qua từng tiết dạy, giáo viên hướng dẫn học sinh kỹ năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất, Đây là kỹ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc trong tập thể. Trong học tập, hoạt động, sinh hoạt hằng ngày, giáo viên luôn chú ý nâng dần kỹ năng giao tiếp, tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu, Biết thông cảm, chia sẻ buồn vui với mọi người. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua học tập, sinh hoạt ở nhà trường là điều hết sức cần thiết cho tương lai các em. Để đạt được điều đó, bản thân mỗi giáo viên cần phải kiên trì, quyết tâm thực hiện từng bước và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy. 2. Tính hiệu quả và khả thi: Trong năm học 2016 -2017, với việc triển khai thực hiện các biện pháp nêu trên, bản thân tôi đã luôn cố gắng rèn cho học sinh những kỹ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt xử lí trong mọi trường hợp. Điều đó đã có tác động tích cực đến kết quả học tập của các em ở cuối năm học. Trong các tiết học trên lớp các em hào hứng hơn, tích cực hoạt động hơn, các em biết chăm chú lắng nghe, thực hành một cách tương đối chính xác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Đặc biệt, sự tự tin, cố gắng vươn lên trong học tập đã được thể hiện ở hầu hết các em trong lớp 4A do tôi phụ trách, rất nhiều em tiến bộ một cách rõ rệt so với đầu năm học. Các em ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật. Các em có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. Đối chiếu, so sánh với kết quả khảo sát ở thời điểm đầu năm học, kết quả khảo sát thực tế trên đối tượng học sinh lớp 4A do tôi phụ trách đến thời điểm cuối năm học 2016 -2017 đạt được như sau: Tổng số học sinh Kỹ năng tốt Có hình thành kỹ năng Kỹ năng chưa tốt SL % SL % SL % HKI 13 44,82 12 41,37 4 13,79 CUỐI NĂM 19 65,51 10 34,49 0 0 3. Phạm vi áp dụng: Sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4” đã được triển khai và vận dụng thực hiện đạt hiệu quả tại lớp 4A –Trường Tiểu học 2 Đất Mũi trong năm học 2016 -2017. Sáng kiến này có thể được áp dụng thực hiện ở các đơn vị trường bạn trên địa bàn Huyện Ngọc Hiển. IV. KẾT LUẬN: Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có hiệu quả, giáo viên cần nắm được phương pháp đặc trưng việc giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh, biết lựa chọn phương pháp, kỹ thuật dạy học phù hợp, kết hợp hình thức dạy học hợp lý nhằm phát huy tính chủ động của học sinh sẽ giúp các em phát huy cao độ trí tuệ, cảm xúc, năng động, sáng tạo trong học tập và giao tiếp. Việc tổ chức giờ dạy học lồng ghép giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 4, đòi hỏi người giáo viên phải vận dụng tri thức, kỹ năng nghiệp vụ sư phạm một cách hợp lý. Đồng thời đưa ra áp dụng là hoàn toàn có cơ sở khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế giảng dạy hiện nay. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phải đảm bảo các yếu tố: giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật, ... Tuy nhiên, giáo dục kỹ năng sống để đạt hiệu quả đòi hỏi nhiều yếu tố chứ không phải chỉ từ các bài giảng. Giáo dục kỹ năng sống chỉ thật sự có hiệu quả khi người giáo viên có tâm huyết, sự kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Giáo dục kỹ năng sống không phải chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng đồng. Nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong các nhà trường chính là các thầy cô giáo. Đối với cộng đồng thì đó là các bậc cha mẹ học sinh, ông bà, họ hàng thân thích, những người lớn tuổi,... Phải kết hợp cả gia đình, nhà trường và xã hội mới mong đào tạo được những học sinh phát triển toàn diện. Để sáng kiến này thật sự phát huy tốt hiệu quả, tôi xin có một số đề xuất, kiến nghị như sau: -Đối với Phòng GD –ĐT: cần tổ chức nhiều buổi hội thảo về tiết dạy lồng ghép giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh, để giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi, rút kinh nghiệm. -Đối với cha mẹ học sinh: cần hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc rèn luyện kỹ năng sống cho con em, tạo chỗ dựa vững chắc để các em có thể mạnh dạn chia sẻ, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo dõi mọi biểu hiện của các em để có biện pháp giáo dục phù hợp. Trên đây là báo cáo sáng kiến “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 4” đã được triển khai thực hiện đạt hiệu quả tại lớp 4A –Trường Tiểu học 2 xã Đất Mũi trong năm học 2016 -2017. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các cấp quản lí và các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện sáng kiến của mình nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh. Chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Người báo cáo ĐƠN VỊ TRỰC TIẾP Đoàn Thanh Phong CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập –Tự do –Hạnh phúc Cà Mau, ngày 06 tháng 4 năm 2017 BÁO CÁO TÓM TẮT NỘI DUNG, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN -Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. -Tên cá nhân thực hiện: Trần Công Quân -Thời gian đã được triển khai thực hiện: tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của người thầy, gắn chặt giữa học và hành, biết thư giãn khoa học, rèn luyện kỹ năng và phương pháp học tập, trong đó những yếu tố hết sức quan trọng là khả năng tự tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" sẽ tạo điều kiện cho các thế hệ học sinh năng động, tích cực dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, được học tập trong môi trường thân thiện học sinh sẽ được phát triển hoàn thiện hơn, góp phần to lớn vào sự phát triển bền vững của đất nước. 2. Mô tả sáng kiến: -Thuận lợi, khó khăn: -Điều kiện thực hiện: -Biện pháp thực hiện: -Các lực lượng phối hợp thực hiện: học sinh, cha mẹ học sinh, giáo viên, nhà trường và các đoàn thể, cộng đồng. 3. Đánh giá về tính mới của sáng kiến: Điểm mới và nổi bật của sáng kiến là việc triển khai và tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”được lồng ghép một cách đồng bộ giữa tất cả các hoạt động trong nhà trường một cách có hệ thống, chặt chẻ và rất phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị. 4. Đánh giá về tính hiệu quả và khả thi của sáng kiến: Trong năm học qua, với sức mạnh tổng hợp của thầy và trò, của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu đã không ngừng nổ lực về mọi mặt trong việc thực hiện phong trào "Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực'' và đã xây dựng được môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thầy cô giáo phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình đảm bảo dạy học có hiệu quả phù hợp với đặc điểm lứa tuổi đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục; học sinh tham gia các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và sáng tạo hơn. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Sáng kiến Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được triển khai và vận dụng thực hiện đạt hiệu quả tại Liên đội Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu. Sáng kiến này có thể được nhân bản và áp dụng thực hiện đạt hiệu quả ở các đơn vị khác. 6. Kiến nghị, đề xuất: -Đối với Sở GD –ĐT, Phòng GD –ĐT: Cần có sự chỉ đạo sâu sát và cụ thể hơn nữa về nội dung, chương trình giáo dục kỹ năng sống cho HS, trong đó đặc biệt chú ý một số kỹ năng quan trọng như: lạm dụng tình dục, sơ cứu tai nạn, đuối nước, ứng xử với bạn bè, người thân, ... với các điều kiện đi kèm như kinh phí, tài liệu, tập huấn cán bộ, ... coi như một phần quan trọng trong công tác dạy và học. Có sự tham mưu tích cực với các ngành liên quan trong việc biên soạn các cuốn sách về trò chơi dân gian, phát hành băng, đĩa về hát và lưu giữ các làn điệu dân ca, các cuộc thi về văn hóa –văn nghệ, thể dục –thể thao, ... -Đối với chính quyền địa phương: Điều động cán bộ chuyên trách phối kết hợp thường xuyên với nhà trường, cử lực lượng tham gia với nhà trường trong các hoạt động như: chăm sóc di tích lịch sử, thi đua tháng an toàn giao thông, ... Cà Mau, ngày 06 tháng 4 năm 2017 Ý kiến xác nhận Người báo cáo của Thủ trưởng đơn vị Trần Công Quân CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập –Tự do –Hạnh phúc Cà Mau, ngày 06 tháng 4 năm 2017 BÁO CÁO TÓM TẮT NỘI DUNG, HIỆU QUẢ SÁNG KIẾN -Tên sáng kiến: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. -Tên cá nhân thực hiện: Trần Công Quân -Thời gian đã được triển khai thực hiện: tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Trong môi trường phát triển toàn diện đó, học sinh học tập hứng thú, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự dìu dắt của người thầy, gắn chặt giữa học và hành, biết thư giãn khoa học, rèn luyện kỹ năng và phương pháp học tập, trong đó những yếu tố hết sức quan trọng là khả năng tự tìm hiểu, khám phá và sáng tạo. Phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" sẽ tạo điều kiện cho các thế hệ học sinh năng động, tích cực dưới sự dạy dỗ của các thầy cô giáo, được học tập trong môi trường thân thiện học sinh sẽ được phát triển hoàn thiện hơn, góp phần to lớn vào sự phát triển bền vững của đất nước. 2. Mô tả sáng kiến: -Thuận lợi, khó khăn: -Điều kiện thực hiện: -Biện pháp thực hiện: -Các lực lượng phối hợp thực hiện: học sinh, cha mẹ học sinh, giáo viên, nhà trường và các đoàn thể, cộng đồng. 3. Đánh giá về tính mới của sáng kiến: Điểm mới và nổi bật của sáng kiến là việc triển khai và tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”được lồng ghép một cách đồng bộ giữa tất cả các hoạt động trong nhà trường một cách có hệ thống, chặt chẻ và rất phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị. 4. Đánh giá về tính hiệu quả và khả thi của sáng kiến: Trong năm học qua, với sức mạnh tổng hợp của thầy và trò, của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường, Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu đã không ngừng nổ lực về mọi mặt trong việc thực hiện phong trào "Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực'' và đã xây dựng được môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương và đáp ứng yêu cầu của xã hội. Thầy cô giáo phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của mình đảm bảo dạy học có hiệu quả phù hợp với đặc điểm lứa tuổi đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục; học sinh tham gia các hoạt động giáo dục với thái độ tự giác, chủ động và sáng tạo hơn. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến: Sáng kiến Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã được triển khai và vận dụng thực hiện đạt hiệu quả tại Liên đội Trường Tiểu học Nguyễn Đình Chiểu. Sáng kiến này có thể được nhân bản và áp dụng thực hiện đạt hiệu quả ở các đơn vị khác. 6. Kiến nghị, đề xuất: -Đối với Sở GD –ĐT, Phòng GD –ĐT: Cần có sự chỉ đạo sâu sát và cụ thể hơn nữa về nội dung, chương trình giáo dục kỹ năng sống cho HS, trong đó đặc biệt chú ý một số kỹ năng quan trọng như: lạm dụng tình dục, sơ cứu tai nạn, đuối nước, ứng xử với bạn bè, người thân, ... với các điều kiện đi kèm như kinh phí, tài liệu, tập huấn cán bộ, ... coi như một phần quan trọng trong công tác dạy và học. Có sự tham mưu tích cực với các ngành liên quan trong việc biên soạn các cuốn sách về trò chơi dân gian, phát hành băng, đĩa về hát và lưu giữ các làn điệu dân ca, các cuộc thi về văn hóa –văn nghệ, thể dục –thể thao, ... -Đối với chính quyền địa phương: Điều động cán bộ chuyên trách phối kết hợp thường xuyên với nhà trường, cử lực lượng tham gia với nhà trường trong các hoạt động như: chăm sóc di tích lịch sử, thi đua tháng an toàn giao thông, ... Cà Mau, ngày 06 tháng 4 năm 2017 Ý kiến xác nhận Người báo cáo của Thủ trưởng đơn vị Trần Công Quân
File đính kèm:
- bao_cao_sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_n.doc