Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả ở Lớp 4

- Môn Tiếng Việt có vai trò hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt: nghe, nói, đọc, viết để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi, thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các thao tác của tư duy.

- Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hóa, văn học Việt Nam và nước ngoài.

- Học Tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối thiểu cần thiết giúp các em hòa nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Cùng với môn Toán và một số môn khác, những kiến thức của môn Tiếng Việt sẽ là những hành trang trên bước đường đưa các em đi khám phá, tìm hiểu, nghiên cứu thế giới xung quanh và kho tàng tri thức vô tận của loài người. Trong đó phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc môn Tiếng Việt (tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện). Chính vì thế, việc dạy và học Tập làm văn là vấn đề luôn cần có sự đổi mới. Không thể cứ áp dụng mãi phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.

 

doc14 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 11890 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả ở Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn mẫu hoàn chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi còn sao chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các em không phong phú mà còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt. Từ những lý do khách quan và chủ quan trên để khắc phục những hạn chế trong việc dạy văn miêu tả ở lớp 4, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: "Một số biện pháp dạy tốt dạng văn miêu tả ở lớp 4".
phần Nội dung
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở sự cảm nhận của người viết về những hình ảnh, đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua quá trình quan sát của các giác quan trực tiếp của mình. Văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ.
Kết cấu bài văn miêu tả gồm 3 phần:
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người miêu tả với đối tượng miêu tả.
+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất định.
+ Kết bài: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
Văn miêu tả là sự vận dụng hiểu biết về ngôn từ để thể hiện sự cảm nhận về cái đẹp. Bài văn miêu tả phải có hồn, phải có chất văn trong đó. Điều này rất khó đối với học sinh lớp 4. Do đó, trách nhiệm của người dạy là thổi hồn, thổi chất văn vào đầu óc non nớt của học sinh và hướng cho các em cách thể hiện.
Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn luyện từ và câu, nắm được cấu trúc của bài văn miêu tả nhưng khi áp dụng vào viết văn thì các em thường mắc các lỗi về dùng từ đặt câu, kết hợp với việc chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật đã học như so sánh, nhân hoá, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn miêu tả của các em còn khô khan, lủng củng, nghèo cảm xúc. Bài văn trở thành một bảng liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả, thường mắc lỗi dùng từ và đặt câu. 
* Chương trình Tập làm văn lớp 4 gồm 68 tiết, trong đó văn miêu tả chiếm 38 tiết gồm các mảng kiến thức sau:
- Thế nào là miêu tả?
- Quan sát để miêu tả cho sinh động.
- Trình tự miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối ).
- Cấu tạo đoạn văn, bài văn miêu tả ( Người, cảnh, đồ vật, con vật, cây cối)
Các kiến thức trên được cụ thể hóa thành hai loại bài. Đó là, loại bài hình thành kiến thức và loại bài luyện tập thực hành. 
I/ Thực trạng việc dạy Tập làm văn - Thể loại văn miêu tả lớp 4.
1/ Tình hình chất lượng học tập môn Tiếng Việt và phân môn Tập làm văn của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy ban đầu, tôi thấy học sinh viết văn miêu tả chưa hay, chưa có hình anh. Một số học sinh chỉ kể lại các chi tiết của đối tượng miêu tả. Bài văn thiếu chất nghệ thuật.
Kết quả cụ thể như sau: 
Lớp
Số HS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm dưới TB
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
4A
23
2
9
6
26
10
43
5
22
Từ thực trạng trên tôi thấy cần thiết phải có những biện pháp sáng tạo trong dạy văn miêu tả lớp 4 góp phần nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học.
II/ Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học văn miêu tả lớp 4.
Người giáo viên phải nắm được tâm lí lứa tuổi học sinh của mình:
Văn miêu tả là một dạng văn mới mẻ đối với học sinh do đó giáo viên phải hướng dẫn một cách tỉ mỉ cho các em. Tâm lí chung của học sinh tiểu học là thích cái mới, thích khám phá. Căn cứ vào điều này mà người dạy cần phải hình thành và rèn luyện cho các em quan sát, cách tư duy về đối tượng miêu tả một cách bao quát, toàn diện và cụ thể tức là quan sát sự vật hiện tượng về nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau, từ đó các em có cách cảm, cách nghĩa sâu sắc khi miêu tả. 
Đối với các em mọi cái mới chỉ là sự bắt đầu của một quá trình. Trí tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì việc làm văn miêu tả sẽ càng thuận lợi bấy nhiêu. Để viết văn miêu tả, học sinh phải có cái hồn, có chất văn trong bài viết. Muốn vậy giáo viên phải luôn luôn nuôi dưỡng ở các em tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, một tấm lòng dễ xúc động và luôn hướng tới cái thiện, biết cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống xung quanh từ những gì gần gũi, thân thương nhất.
Giáo viên cần làm cho học sinh nắm được bản chất của dạng văn miêu tả:
Văn miêu tả mang tính nghệ thuật cao do đó nó phải có sự sáng tạo, sự đánh giá hết sức phong phú của người viết. Mỗi bài văn là tác phẩm của mỗi người nên không có sự sao chép của người khác. Người viết phải gợi ra cho người đọc cái hay, cái đẹp của đối tươngj mặc dù nó không mới. Mỗi đối tượng lại có những nét riêng.
Nhà văn Phạm Hổ cho rằng: "Cái riêng, cái mới trong văn miêu tả phải gắn với cái chân thật". Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của ngườu viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết "bịa" một cách tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng, thói già trước tuổi.
Mặt khác giáo viên cần giúp các em nắm được: trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh, đây là một trong những miêu tả trong sinh học, địa lý và các thể loại văn khác.
Từ việc hiểu rõ đặc điểm của thể loại văn miêu tả, hiểu rõ con đường mình cần đi và đích mình cần tới, chắc chắn học sinh sẽ thận trọng hơn khi chọn lọc từ ngữ, sẽ gọt giũa kỹ hơn từng lời, từng ý trong bài văn và như vậy chất lượng bài làm của các em sẽ tốt hơn.
Giáo viên cung cấp cho học sinh vốn từ giàu sức miêu tả, có hình ảnh và sáng tạo:
Học sinh tiểu học vốn từ chưa phong phú, còn hạn chế nhất là vốn từ để miêu tả. Do vậy người giáo viên trước hết phải cung cấp cho các em vốn từ miêu tả, để học sinh có vốn sống cho mình.
	Vốn từ không phải đâu xa lạ mà chính là vốn từ khi dạy bài tập đọc, dạy mở rộng vốn từ, dạy chính tả Khi các em được cung cấp vốn từ này giáo viên nên khuyến khích học sinh ghi lại vào sổ tay văn học.
	Ngoài ra, người giáo viên phải có vốn từ phong phú thì mới cung cấp cho học sinh. Giáo viên có thể lấy trên sách báo, các phương tiện thông tin khác. Tuỳ theo dạng bài miêu tả ( người, đồ vật, cảnh, con vật, cây cối ) mà giáo viên cung cấp vốn từ và học sinh sử dụng khác nhau:
Tả người: gồm có tầm vóc( cân đối, thon thả, vạm vỡ, cao lớn, khệnh khạng, dòng dỏng); diện mạo( chững chạc, cởi mở, kín đáo, khắc khổ, thông minh, linh hoạt, lém lỉnh); khôn mặt ( tròn, trái xoan, hồng hào, phúc hậu, sáng sủa, chữ điền, ủ rũ); đầu( tròn, dài, bẹp, to, nhỏ, hói, cao , thấp);đôi mắt ( bồ câu,lá răm, lóng lánh, lanh lợi, sắc sảo, trong sáng, thơ ngây, nhân từ); nước da( trắng trẻo,trắng hồng, ngăm ngăm, rám nắng, xanh xao, thô ráp, xù xì); thân hình( mập ú, gầy guộc, mảnh mai, béo phệ, ..); mái tóc( óng ả, đên nhánh, vàng như râu ngô, đên mượt, dày kì lạ); lời nói( dịu dàng, lịch sự, chân tình, khiếm nhã);nụ cười( hồn nhiên, vui vẻ, khúc khích, hiền dịu, toe toét, gượng gạo); trang phục( giản dị, lôi thôi, bảnh bao, lịch sự, dơ bẩn, sang trọng, loè loẹt)
Tả cảnh: buổi sáng( dịu dàng, dễ chịu, trong lành, mát mẻ, xanh mướt, long lanh, tràn trề); buổi trưa( chói chang, trơ trọi, nhộn nhịp, chen chúc, oi bức, nắng như đổ lửa, quang đãng); buổi chiều( tim tím, nhè nhẹ, xa xa, ồn ào, ); buổi tối( yên tĩnh, chìm vào giấc ngủ, đen kịt, vắng vẻ, ).
Tả đồ vật: hình dáng( tròn trịa, dài dài, tròn trùng trục, mập mạp, dong dỏng,); màu sắc( đo đỏ, vàng vọt, xanh ngát, trăng trắng, hồng hào, tím biếc)
.
Giáo viên cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, song yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
+ Giáo viên cần đưa ra các câu miêu tả sinh động và có sự so sánh với các bài miêu tả khác nhau:
- Chú ta có cái đuôi thon dài như một cái măng ngọc. 
- Lúc chú ngồi, hai chân sau xếp lại, hai chân trước chống lên, đăm chiêu nhìn và nghe ngóng, cái đuôi mềm mại, phe phẩy như làm duyên. ( tả đuôi con mèo)
- Hay: Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất thướt tha cùng với tấm thân thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu. ( tả cái đuôi con gà trống)
Như vậy cùng là miêu tả về bộ lông của chú gà trống, cái đuôi của chú mèo nhưng những câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa, có dùng những từ gợi tả, gợi cảm như các câu trên thì hiệu quả khác hẳn, ta thấy miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người đọc, người nghe.
Cần dạy tốt phân môn của Tiếng Việt nhất là LTVC (các dạng câu kể; MRVT): 
Thông qua các tiết LTVC có nội dung MRVT, học sinh được củng cố thêm về vốn từ ngữ của mình, nắm được ý nghĩa của chúng. Từ đó các em biết cách sử dụng đúng hơn, hay hơn. Mặt khác các chủ điểm trong chương trình được kết cấu chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau nên rất phù hợp cho dạng văn miêu tả( MRVT Đồ chơi – Trò chơi; Tài năng; Ước mơ;).
Một lỗi phổ biến nhất trong các bài văn miêu tả của học sinh tiểu học là đặt câu cũ không rõ ràng, có phần lủng củng. Bài văn trở thành bài liệt kê các chi tiết của vật được tả. Để khắc phục tình trạng này trước hết phải cho học sinh thực hành thật thành thạo các mẫu câu này rồi vận dụng vào văn miêu tả.
Trần Quốc Toản là vị anh hùng thiếu niên dũng cảm.
Chim én là sứ giả của mùa xuân.( kiểu câu Ai là gì? )
Hạng A Cháng cày ruộng như người nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu.
Anh trăng như muôn ngàn ánh ngọc toả xuống trần gian.( kiểu câu Ai thế nào? ).
Chính tả giúp học sinh viết đúng, viết nhanh, viết đẹp và trình bày rõ ràng, sạch sẽ. Tập đọc rèn kỹ năng cảm thụ cho học sinh, chính tả rèn kỹ năng viết cho học sinh thì phân môn kể chuyện rèn kỹ năng nói hay cách nói khác là kỹ năng sản sinh văn bản dưới dạng nói của học sinh. Kể chuyện vừa bồi dưỡng tình cảm, giúp học sinh biết quý trọng người tốt, phê phán cái xấu, vừa giúp học sinh học tập cách miêu tả, cách diễn đạt trong mỗi câu chuyện. Mỗi một phân môn của Tiếng Việt co vai trò riêng nhưng lại hỗ trợ cho nhau. Người dạy cần phải có sự liên hệ trong khi dạy Tiếng Việt. Với phân môn Tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của những phân môn khác, muốn học tốt Tập làm văn học sinh cần học tốt các phân môn còn lại.
5- Hướng dẫn học sinh xây dựng đoạn văn mở bài và kết bài.
Bài văn không thể thiếu phần mở bài và kết bài, những phần này thường thu hút người đọc, người nghe chú ý cách đặt vấn đề và cách cảm nghĩ về vấn đề mà người trình bày. Chính vì vậy việc rèn luyện cho học sinh xây dựng một đoạn văn mở bài và kết bài là rất cần thiết.
Đoạn văn mở bài: Có hai cách mở bài mà học sinh được học đó là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Không nhất thiết phải gò bó học sinh làm mở bài theo cách nào để cho các em tự chọn cho mình cách mở bài hợp lý nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Khi viết theo kiểu mở bài nào cũng cần phải thổi được cái hồn cho nó. Cần cho hoc sinh viết nhiều lần với những mở bài khác nhau đối với cùng một đề bài.
''Hè vừa rồi, mẹ em đi chợ mua được một con mèo tam thể. Chú ta là thành viên thứ năm của gia đình em, nay đã được bốn tháng."
" Nhà em đã từ lâu không có một chú chuột nào dám bén mảng tới vì có một chú lính gác cừ khôi, đó chính là chú Mướp. Mướp ta đã được một năm tuổi, nó thật hiền dịu nhưng cũng thật tinh nhanh, nó như người bạn thân của em."
Hay với đề tả cây đa cổ thụ: "ở đầu làng em có một cây đa cổ thụ nó dễ phải bằng trăm năm tuổi. Cả làng gọi đó là cây đa ông Đài , vì ông Đài là người trồng ra nó, nhưng ông Đài là ai, sống và chết từ bao giờ thì cả làng không ai nhớ cả."
“Từ bến đò phía xa em đã nhìn thấy làng em. Phải qua một cánh đồng bao la, một con đường liên xã dài hơn hai cây số, em đã nhìn thấy làng quê yêu dấu: Cây đa cổ thụ in bóng xanh thẫm trên bầu trời. Mỗi lần đi xa về, em cảm động tưởng như cây đa làng quê đang giơ tay vẫy chào, đón đợi."
Đôi khi cách mở bài trực tiếp nhưng cũng rất đáng ghi nhận: “ Nếu có ai hỏi người em yêu quý nhất trong nhà là ai? Thì em sẽ trả lời ngay: Đó là mẹ em.( Đề bài tả một người thân trong gia đình.).
Từ các cách mở bài khác nhau các em nhận xét và tìm ra ý đúng, ý hay để mở bài một cách hợp lý nhất.
 - Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không mở rộng, kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài có mở rộng bằng cảm xúc của mình một cách tự nhiên thông qua những câu hỏi mở, sau đó cho các em nhận xét, sửa sai và chắt lọc để có được những kết bài hay.
"Cây gạo có thể sống đến nghìn năm. Nó là nhân chứng thầm lặng của dòng đời. Cô giáo em nói thế. Đi học về, đứng trên bên đò, hoặc đi xa về, ngắm nhìn ba cây gạo, em thấy lòng bồn chồn xôn xao. Cây gạo là hồn quê, là tình quê vơi đầy."( tả cây gạo )
Bài văn không thể hay nếu thiếu cảm xúc của người viết, cảm xúc không chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn thể hiện ở từng câu, từng đoạn của bài. Vì vậy giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách bộc lộ cảm xúc trong bài văn một cách thường xuyên liên tục, từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến những tiết luyện tập xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và ngay trong tiết trả bài nữa.
Giáo viên cần hoàn thành nhiệm vụ của mình trong mỗi tiết dạy.
Văn kể chuyện là một dạng văn khó do đó đòi hỏi người dạy phải biết sử dụng tối đa khoảng thời gian của mỗi tiết học để truyền tri thức cho học sinh. Học sinh hiểu kiến thức đã khó, sử dụng kiến thức đó để viết cho hay, cho ra chất văn còn khó hơn. Với mỗi tiết học người dạy cần phải đặt ra cho mình câu hỏi “Dạy cái gì? Dạy như thế nào? Hiệu quả ra sao? Học sinh nắm được những gì?”. Có như thế thì giờ dạy mới đạt hiệu quả. Giáo viên cần truyền “lửa miêu tả” trong lòng mình sang cho học sinh. Như trên đã nói, cần giúp học sinh nhìn nhận mọi sự vật ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau, kích thích trí tưởng tượng, sáng tạo của các em.
Cần cung cấp phương tiện trực quan cho học sinh khi dạy dạng bài văn miêu tả.
Miêu tả tức là tả lại những gì đã thấy sao cho hay, cho đẹp. Do đó muốn học sinh tả được cần phải để các em quan sát thật nhiều vật mẫu. Thời đại ngày nay khi công nghệ thông tin bùng nổ thì vật mẫu cho các em quan sát không phải là điều khó khăn.
Học sinh có thể miêu tả những cái gần gũi xung quanh cuộc sống của mình. Bởi vì hầu hết các đề văn miêu tả ở lớp 4 đều là miêu tả đò vật quen thuộc gần gũi với các em như cái cặp, món đồ chơi mà em yêu thích, con vật nuôi trong nhà, ngôi trường, cây đa, mái đình làng, cánh đồng quê hương Tuy nhiên vì học sinh tiểu học tư duy phải dựa vào vật trước mắt mà khi ở lớp thì không thể có mà quan sát. Chính vì vậy giáo viên phải chuẩn bị khâu đồ dùng thật chu đáo và đầy đủ.
Đồ dùng cho học sinh quan sát có thể là tranh về đồ vật, con vật, cảnh, người có trong bộ tranh của các trường khá phong phú và đầy đủ. Thực tiễn các trường ở địa phương đã cung cấp đầy đủ cho yêu cầu này.
Ngoài ra người dạy còn có thể đưa thêm những tranh ảnh mình sưu tầm được qua sách báo, tạp chi. Nguồn này hiện nay rất đa dạng.
Một biện pháp tối ưu cho việc sử dụng đò dung dạy học trực quan đó là ứng dụng công nghệ thông tin. Chỉ cần chúng ta dành chút thời gian vào internet là tất cả những gì chung ta cần đều được nhà mạng cung cấp hết sức đầy đủ.
Trước hết là tranh về những đối tượng gần gũi bên cạnh học sinh: con gà, con mèo, con trâu, con chó
	Ngoài ra giáo viên có thể cung cấp cho học sinh hình ảnh những con vật khác để các em mở rộng đề tài.	
	Những hình ảnh quen thuộc của làng quê có tác dụng rất lớn khi các em viết văn miêu tả cảnh. Nhưng khả năng ghi nhớ của học sinh còn kém nên trong các tiết quan sát giáo viên nên cho các em xem kĩ hơn.
	đồng lúa chín
 Cây đa	cây dừa
Giáo viên có thể sử dụng dạy máy chiếu trong các tiết quan sát thì hiệu quả sẽ tăng lên rất nhiều vì chúng ta đưa được nhiều hình ảnh cùng một lúc, các hình ảnh lại rõ ràng sinh động.
III/ Kết quả
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A kết quả cụ thể như sau:
Lớp
Số học sinh
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm < 5
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4A
23
8
35
10
43
5
22
Bài làm của nhiều em đã tiến bộ rõ rệt, các em đã biết viết văn miêu tả giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, đặc biệt nhiều em đã biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: Nhân hóa, so sánh, dùng điệp từ, điệp ngữbài làm sinh động, cảm xúc chân thật. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná như nhau. Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm văn thì kết quả như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ được áp dụng khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở các lớp khác thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất nhiều.
PHần Kết luận
I. kết luận:
Việc nâng cao chất lượng dạy học là một trong những yêu cầu trọng tâm của chiến lược phát triển giáo dục. Một trong những yếu tố quyết định đến chất lượng giáo dục đó là đội ngũ giáo viên, để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục, giáo viên phải không ngừng học hỏi, sáng tạo trong giảng dạy, đem hết khả năng và niềm đam mê, lòng nhiệt tình cho công tác thì mới có được những kết quả như mong muốn. Với việc dạy tập làm văn, nhất là văn miêu tả 4 thì việc làm này càng cần thiết hơn bởi việc dạy tập làm văn là rất khó Học sinh lớp 4 tuy đã gần cuối cấp tiểu học nhưng việc làm văn cũng mới dừng ở mức độ "tập", nội dung chương trình lại hoàn toàn mới.
Không phải ai sinh ra cũng mang sẵn trong mình một tâm hồn văn chương mà khả năng ấy phải được bồi đáp dần qua năm tháng, qua trang sách và những bài giảng hàng ngày của thầy cô. Muốn có được khả năng ấy của mỗi học sinh thì chính mỗi giáo viên phải định hướng, gợi mở cho các em phương pháp học tập. Như những cây non được ươm trồng cần bàn tay con người chăm sóc, vun xới thì nó sẽ trở nên tươi tốt.
II/ Bài học kinh nghiệm 
Từ thực tế giảng dạy, tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy tập làm văn người giáo viên cần:
- Tìm hiểu kỹ đối tượng học sinh, đặc điểm tâm lý của học sinh, hiểu và nắm chắc đặc điểm, chức năng của văn miêu tả và cần giúp các em hiểu rõ các đặc điểm ấy ngay từ tiết đầu tiên của thể loại văn miêu tả. 
- Vì tập làm văn là phân môn thực hành tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc môn Tiếng việt nên muốn dạy tập làm văn có chất lượng cần thiết phải dạy tốt các phân môn còn lại.
- Cần chuẩn bị chu đáo trước khi lên lớp, cung cấp mẫu phong phú cho các em, phân tích cái hay cái đẹp để thổi hồn vào đó tình yêu văn chương cho các em.
- Công nghệ thông tin đã trở thành trợ thủ đắc lực cho giáo dục, vậy tại sao chúng ta không áp dụng nóvào quá trình dạy học.
III/ ý kiến đề xuất
Để những biện pháp của đề tài mang lại hiệu quả, tôi xin có một số ý kiến đề xuất sau đây:
1. Đối với ngành: 
- Nghiên cứu các ngữ liệu đưa vào sách giáo khoa cho phù hợp với tâm lý lứa tuổi, phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh hiện nay.
- Hàng năm cần tổ chức các phong trào thi đua viết thơ văn, sáng tác nhỏ của tuổi thơ để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường: Trang bị những thông tin hiện đại, máy tính nối mạng Internet để giáo viên có thể tra cứu, tìm các thông tin phục vụ cho giảng dạy.
2. Đối với nhà trường:
- Tăng cường đầu sách trong thư viện để giáo viên có đủ tư liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy nhất là các tạp chí: Giáo dục Tiểu học, Thế giới trong ta
- Hàng năm thường xuyên tổ chức cho giáo viên và học sinh đi thăm quan du lịch để nâng cao hiểu biết về cảnh vật, đất nước và con người Việt Nam.
Xin chân thành cảm ơn!

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan