Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp một "Giữ vở sạch rèn chữ đẹp"

. Đề nghị:

 Trong quá trình dạy học giáo viên cần chú ý một số vấn đề như sau:

 - Đến giờ học cần hướng dẫn cho các em tư thế ngồi học đúng, ngồi ngay ngắn, thẳng cột sống, vai ngang bằng ngực cách mép bàn ít nhất 1cm, chân gập thành góc vuông, vòng hai tay trên mặt bàn, mắt nhìn thẳng.

 - Khi viết bài hướng dẫn tư thế đặt vở. Để vở hơi chếch về bên trái so với mép bàn.

 - Ngồi ngay ngắn, thẳng người, đúng vị trí, lưng thẳng, không tì ngực vào bàn đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 20-25cm, tay phải cầm bút, tay trái giữ vở để vở không bị xộc xệch, rách trang, rách bìa.

 

doc19 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 10929 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp một "Giữ vở sạch rèn chữ đẹp"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếng Việt ngoài các nét cơ bản trong cấu tạo chữ viết còn có các nét dư. Những nét dư thừa này có chức năng tạo sự liên kết giữa các nét trong từng chữ cái và giữa các chữ cái với nhau.
Việc cải tiến chữ cái (kiểu chữ CCGD) bằng cách lược bỏ những nét dư thừa đã làm mờ sự khu biệt cần thiết giữa các chữ cái và gây trở ngại trong giao tiếp, mặt khác cách làm này cho chữ viết tay không liền mạch, không đẹp và tốc độ viết chậm.Ví dụ: anh
* Nét phối hợp:Trên cơ sở lấy nét chữ cơ bản làm nền, tính từ điểm xuất phát kéo dài nét đó cho đến khi không thể và không cần thiết kéo dài được nữa (đến đây đã đủ nét và nếu cứ tiếp tục kéo dài sẽ trùng với nét khác hoặc dư thừa nét) thì chấm dứt. Loại nét này gọi là nét phối hợp. Nhờ cách quan niệm như vậy, các nét cấu tạo chữ cái không bị cắt vụn. Chẳng hạn, với chữ cái “a” thông thường có thể phân thành 2 nét: nét cong trái, nét móc dưới (C, ) nhưng khi viết, thông thường người viết kéo dài nét thẳng đứng cho đến khi kết thúc nét, lúc đó ta được nét móc phải (là sự kết hợp giữa nét thẳng đứng và nét cong). Vì vậy, ta chọn lối phân tích chữ “a” thành 2 nét: nét cong kín (O) và nét móc phải ( ).
Với cách xác định chữ như trên, việc phân tích các chữ trở nên gọn và dễ hiểu.
Sau đây là danh sách các nét phối hợp cần được thống nhất để dạy viết nét và viết chữ cái tiếng Việt:
1- Nét móc trên:	, nét móc dưới: 
2- Nét móc 2 đầu:
3- Nét thắt đầu: 	, nét thắt giữa:
4- Nét khuyết trên:	, nét khuyết dưới:
Cách sắp xếp các chữ cái có hình dáng tương tự vào cùng bài dạy xuất phát từ quan niệm muốn dùng thao tác tương đồng để dạy chữ cái và dạy viết theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp xét về cấu tạo nét chữ.
Nhóm 1: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong: c, o, ô, ơ, e, ê, x.
Nhóm 2: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét cong phối hợp với nét móc (hoặc nét thẳng): a, ă, â, d, đ, g.
Nhóm 3: Nhóm chữ cái có nét cơ bản là nét móc: i, t, u, ư, p, m, n.
Nhóm 4: Nhóm các chữ cái có nét cơ bản là nét khuyết (hoặc nét cong phối hợp với nét móc): l, h, k, b, y, g.
Nhóm 5: Nhóm chữ cái có nét móc phối hợp với nét thắt:r,v,s 
Về cơ bản, cách sắp xếp này cũng theo sát các nhóm bài luyện tập viết trong vở.
4/ Phương pháp dạy tập viết:
 	4.1) Phương pháp trực quan:
Giáo viên khắc sâu biểu tượng về chữ cho các em bằng nhiều con đường: kết hợp mắt nhìn, tai nghe, tay luyện tập. Điều này giúp các em chủ động phân tích hình dáng, kích thước và cấu tạo theo mẫu chữ, tìm sự giống nhau và khác nhau của chữ cái đã học trước đó trong cùng một nhóm bằng thao tác so sánh tương đồng.
Chữ viết mẫu là hình thức trực quan ở tất cả các bài tập viết. Đây là điều kiện đầu tiên để các em viết đúng. Có các hình thức chữ mẫu: chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu hắt, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu Tiêu chuẩn cơ bản của chữ mẫu là phải đúng mẫu quy định, rõ ràng và đẹp.
Chữ mẫu có tác dụng:
- Chữ mẫu phóng to trên bảng hoặc trên máy chiếu sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện để các em phân tích hình dáng và các nét chữ cơ bản, cấu tạo chữ cái cần viết trong bài học.
- Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng sẽ giúp học sinh nắm được thứ tự các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong 1 chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
- Chữ của giáo viên khi chữa bài, chấm bài cũng được quan sát như một loại chữ mẫu, vì thế giáo viên cần ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng.
Ngoài ra, để việc dạy chữ không đơn điệu, giáo viên cần coi trọng việc xử lý quan hệ giữa âm và chữ, tức là giữa đọc và viết. Do đó trong tiến trình dạy tập viết, nhất là những âm mà địa phương hay lẫn, giáo viên cần đọc mẫu. Việc viết đúng củng cố việc đọc đúng và đọc đúng đóng góp vai trò quan trọng để đảm bảo viết đúng.
 	4.2) Phương pháp đàm thoại gợi mở:
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở giai đoạn đầu của tiết học. Giáo viên dẫn dắt học sinh tiếp xúc với các chữ cái sẽ học bằng một hệ thống câu hỏi, từ việc hỏi về các nét cấu tạo chữ cái, độ cao, kích thước chữ cái đến việc so sánh nét giống nhau và nét khác biệt giữa các chữ cái đã học với chữ cái đã phân tích.
Ví dụ: Khi dạy chữ A, giáo viên có thể đặt câu hỏi: chữ A gồm có bao nhiêu nét? là những nét nào? chữ A cao mấy ô? độ rộng của chữ là bao nhiêu?
Với những câu hỏi khó, giáo viên cần định hướng cách trả lời cho các em. Vai trò của giáo viên ở đây là người tổ chức hướng dẫn học sinh phân tích cấu tạo chữ cái chuẩn bị cho giai đoạn luyện tập viết ở phần sau.
 	 4.3) Phương pháp luyện tập:
Giáo viên cần chú ý đến các giai đoạn của quá trình tập viết chữ. Việc hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp đến cao để học sinh dễ tiếp thu. Lúc đầu là việc viết đúng hình dáng, cấu tạo kích thước các cỡ chữ, sau đó là viết đúng dòng và đúng tốc độ quy định. Việc rèn luyện kỹ năng viết chữ phải được tiến hành đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, ở phân môn tập viết cũng như ở các phân môn của bộ môn Tiếng Việt và các môn học khác.
Khi học sinh luyện tập chữ viết, giáo viên cần luôn luôn uốn nắn cách ngồi viết. Cần lưu ý các hình thức luyện tập cơ bản sau:
Tập viết chữ (Chữ cái, chữ số, từ ngữ, câu) trên bảng lớp.
Hình thức tập viết trên bảng có tác dụng kiểm tra sự tiếp thu cách viết và bức đầu đánh giá kỹ năng viết chữ của học sinh. Hình thức này dùng để kiểm tra bài cũ hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. Từ đó, giáo viên phát hiện những chỗ sai của học sinh để uốn nắn (sai về kích cỡ, hình dáng, thứ tự các nét viết).
Tập viết chữ vào bảng con của học sinh:
Học sinh luyện tập viết bằng phần (hoặc bút bảng) vào bảng con trước khi viết vào vở. Học sinh có thể viết chữ cái, vần, chữ khó vào bảng. Khi sử dụng bảng, giáo viên phải hướng dẫn học sinh cả cách lau bảng, cách giơ bảng, cách sử dụng và bảo quản phấn
Luyện viết trong vở: 
Muốn cho học sinh sử dụng có hiệu quả vở tập viết, giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng viết của từng bài (chữ mẫu, các dấu chỉ khoảng cách giữa các chữ, dấu chỉ vị trí đặt bút, thứ tự viết nét) giúp các em viết đủ, viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết.
Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như thế, việc luyện tập viết chữ mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên. Việc làm này yêu cầu người giáo viên ngoài những hiểu biết về chuyên môn còn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu nghề - mến trẻ.
 4.4. Rèn nếp viết chữ rõ ràng sạch đẹp.
Chất lượng về chữ viết của học sinh không chỉ phụ thuộc vào điều kiện chủ quan (năng lực cá nhân, sự luyện tập kiên trì, trình độ sư phạm của giáo viên) mà còn có sự tác động của những yếu tố khách quan (điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc dạy và học Tập viết). Do vậy, muốn rèn cho học sinh nếp viết rõ ràng, sạch đẹp, giáo viên cần quan tâm hướng dẫn, nhắc nhở các em thường xuyên về các mặt chủ yếu dưới đây:
4.4.1.Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học tập.
Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh được thực hành luyện viết thông qua 2 hình thức: viết trên bảng (bảng cá nhân – bảng con, bảng lớp) bằng phấn và viết trong vở tập viết (tài liệu học tập chính thức do Bộ GD&ĐT qui định đối với lớp 1) bằng bút chì, bút mực. Do vậy, để thực hành luyện viết đạt kết quả tốt, học sinh cần có ý thức chuẩn bị và sử dụng có hiệu quả một số đồ dùng học tập thiết yếu sau:
4.4.1.1.Bảng con, phấn trắng (hoặc bút dạ), khăn lau.
Bảng con màu đen, bề mặt có độ nhám vừa phải, dòng kẻ ô rõ ràng, đều đặn (thể hiện được 4 dòng) tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh viết phấn. Phấn trắng có chất liệu tốt làm nổi rõ hình chữ trên bảng. Bút dạ viết trên bảng phoóc trắng có dòng kẻ, cầm vừa tay, đầu viết nhỏ, ra mực đều mới viết được dễ dàng. Khăn lau sạch sẽ, có độ ẩm vừa phải, giúp cho việc xoá bảng vừa đảm bảo vệ sinh, vừa không ảnh hưởng đến chữ viết.
Thông qua việc thực hành luyện viết của học sinh trên bảng con, giáo viên nhanh chóng nắm được những thông tin phản hồi trong quá trình dạy học để kịp thời xử lí, tác động nhằm đạt được mục đích dạy học đề ra.
Để việc sử dụng các đồ dùng học tập nói trên trong giờ Tập viết đạt hiệu quả tốt, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực hiện một số điểm sau:
- Chuẩn bị bảng con, phấn, khăn lau đúng qui định:
+ Bảng con có dòng kẻ đồng dạng với dòng kẻ li trong vở tập viết.
+ Phấn viết có độ dài vừa phải.
+ Khăn lau sạch.
- Sử dụng bảng con hợp lí và đảm bảo vệ sinh:
+ Ngồi viết đúng tư thế.
+ Cầm và điều khiển viên phấn đúng cách.
+ Viết xong cần kiểm tra lại. Tự nhận xét và bổ sung chỗ còn thiếu, giơ bảng ngay ngắn để giáo viên kiểm tra nhận xét.
+ Đọc lại chữ đã viết trước khi xoá bảng.
4.4.1.2.Vở tập viết, bút chì, bút mực:
Vở tập viết lớp 1 cần được giữ gìn sạch sẽ, không để quăn góc hoặc giây bẩn. Bút chì dùng ở 3 tuần đầu lớp 1 cần được bọc cho cẩn thận, đầu chì không nhọn quá hay dày quá để dễ viết rõ nét chữ. Riêng về bút mực, trước đây đòi hỏi học sinh hoàn toàn sử dụng loại bút có quản, ngòi bút nhọn đầu viết được nét thanh nét đậm. Từ khi loại bút bi được sử dụng phổ biến thay thế cho bút chấm mực, việc học tập viết của học sinh có phần tiện lợi (viết nhanh, đỡ giây mực) song chất lượng chữ viết có phần giảm sút.
 	 4.5. Thực hiện đúng qui định khi viết chữ:
* Tư thế ngồi viết: Tư thế lưng thẳng, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, mắt cách vở 25 – 30cm; nên cầm bút tay phải, tay trái tì nhẹ lên mép vở để trang viết không bị xê dịch; hai chân để song song, thoải mái (tham khảo hình vẽ minh hoạ ở trang 2, vở Tập viết 1 – tập 1)
* Cách cầm bút: Học sinh cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa) với độ chắc vừa phải (không cầm bút chặt quá hay lỏng quá): khi viết, dùng ba ngón tay di chuyển bút nhẹ nhàng, từ trái sang phải, cán bút nghiêng về bên phải, cổ tay, khuỷu tay và cánh tay cử động theo, mềm mại, thoải mái.
* Cách để vở, xê dịch vở khi viết: Khi viết chữ đứng, học sinh cần để vở ngay ngắn trước mặt. Nếu tập viết chữ nghiêng, tự chọn cần để vở hơi nghiêng sao cho mép vở phía dưới cùng với mép bàn tạo thành một góc khoảng 15 độ. Khi viết độ nghiêng của nét chữ cùng với mép bàn sẽ tạo thành một góc vuông 90 độ. Như vậy, dù viết theo kiểu chữ đứng hay kiểu chữ nghiêng, nét chữ luôn thẳng đứng trước mặt (chỉ khác nhau về cách để vở).
* Cách trình bày bài: Học sinh nhìn và viết đúng theo mẫu trong vở tập viết; viết theo yêu cầu được giáo viên hướng dẫn tránh viết dở dang chữ ghi tiếng hoặc viết chòi ra mép vở không có dòng kẻ li; khi viết sai chữ, không được tẩy xoá mà cần để cách một khoảng ngắn rồi viết lại.
 	 5/ Đổi mới phương pháp dạy học:
Muốn cải tiến quy trình dạy tập viết, điều không thể thiếu được là phải đổi mới phương pháp dạy học, tiết tập viết càng cần phải tạo điều kiện để học sinh chủ động tiếp nhận kiến thức (tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ), tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Có thể thực hiện những yêu cầu trên theo quy trình tiết tập viết như sau:
 	 5.1. Kiểm tra (hoặc nhận xét bài cũ)
- Kiểm tra học sinh viết bảng con (1 - 2 em viết bảng lớp) chữ cái và từ ứng dụng ngắn gọn ở bài trước. Giáo viên hướng dẫn chữa bài trên bảng (dùng phấn màu sửa chữ viết sai hoặc chưa đúng mẫu), sau đó gợi ý để học sinh tự sửa chữ đã viết trên bảng con và giơ bảng cho giáo viên kiểm tra, uốn nắn thêm (chú ý động viên kịp thời những học sinh viết đẹp).
5.2. Bài mới:
5.2.1- Giới thiệu bài: - Nêu nội dung và yêu cầu tiết dạy.
	 - Bài số:..
 Chữ mẫu - Từ ứng dụng
5.2.2- Hướng dẫn học sinh viết chữ:
- Giáo viên đưa chữ mẫu cho học sinh quan sát.
- Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận biết, so sánh: Chữ gì? Gồm mấy nét? Nét nào đã học, giống chữ nào đã học, phần nào khác? (Có thể cho học sinh chỉ vào chữ mẫu trên bảng)
- Giáo viên hướng dẫn quy trình viết chữ:
+ Sử dụng chữ mẫu để học sinh quan sát.
+ Viết mẫu trên khung chữ thật thong thả cho học sinh theo dõi (ghi nhớ thứ tự các nét).
+ Viết mẫu trên dòng kẻ ở bảng lớp (hoặc trên bảng con) để học sinh nắm vững quy trình viết chữ caí. Giáo viên viết mẫu sau đó dùng que chỉ lại để mô tả quy trình.
- Học sinh tập viết trên bảng con, giơ bảng để giáo viên kiểm tra uốn nắn, nhận xét kết quả (chú ý về hình dáng, quy trình).
 5.2.3- Hướng dẫn học sinh viết ứng dụng:
- Giáo viên giới thiệu nội dung viết ứng dụng và viết nội dung từ ứng dụng; sau đó gợi ý học sinh hiểu ý nghĩa từ ứng dụng sẽ viết.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét về cách viết ứng dụng (chú ý đến các điểm quan trọng: độ cao các chữ cái, quy trình viết liền mạch - nối chữ, khoảng cách giữa các chữ cái, đặt dấu ghi thanh).
- Giáo viên viết mẫu minh họa cách nối chữ (do giáo viên xác định trọng tâm ở bài dạy), học sinh theo dõi.
- Học sinh tập viết theo trọng tâm nối chữ do giáo viên chọn (chữ ghi tiếng - từ có thao tác nối). Giáo viên theo dõi, kiểm tra, uốn nắn và nhận xét.
 	 5.2.4- Học sinh thực hành luyện viết trong giờ tập viết:
- Giáo viên nêu yêu cầu và nội dung luyện viết trong vở (viết chữ gì? viết mấy dòng? cần lưu ý về điểm đặt bút ra sao? viết từ ứng dụng mấy dòng? cần lưu ý về cách nối chữ và đặt dấu thanh, khoảng cách giữa các chữ ra sao?)
- Học sinh luyện viết trong vở. Giáo viên theo dõi uốn nắn về cả cách viết và tư thế ngồi viết (chú ý giúp đỡ học sinh yếu kém).
 	 5.2.5- Chấm bài tập viết của học sinh:
- Giáo viên chấm bài cho học sinh đã viết xong ở lớp (số còn lại thu về nhà chấm).
- Nhận xét kết quả chấm bài, khen ngợi những bài đạt kết quả tốt. Nếu bài học dài, giáo viên có thể chọn dạy một nội dung tiêu biểu và học sinh luyện tập theo nội dung tương ứng.
6. Cơ sở thực tiễn:
- Qua thực trạng dạy và học cho thấy vấn đề giữ vở sạch, viết chữ đẹp đang là ván đề đáng quan tâm của giáo viên nói riêng, của nhà trường nói chung. Đây là mảng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh. Mặc dù xác định tầm quan trọng như vậy nhưng trong thực tế cho thấy còn một số giáo viên thiếu quan tâm đến việc hướng dẫn HS giữ vở sạch rèn chữ đẹp. 
 - Đầu năm, khi được phân công chủ nhiệm lớp 1C, (tổng số HS 36 em). Vì vậy ngay tuần đầu tiên nhận lớp tôi khảo sát có 8 em viết chữ tương đối cẩn thận, sách vở có bao bìa nhãn ghi tên. Bên cạnh đó còn lại những em viết chưa được, viết cẩu thả, nét chưa đều, viết không ô li, dòng kẻ, vở thì lại bôi bẩn, vở quăn góc, không nhãn tên, không bao bìa, viết bài trong vở một cách tùy tiện, thậm chí có những em chưa biết cầm bút ... Đó là vấn đề tôi thực sự lo lắng và tôi cũng đã có ý kiến này trong cuộc họp tổ chuyên môn.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do:
- Một số em viết chữ ẩu, nguệch ngoạc không đúng nét.
 - Các em cầm bút nhưng chưa đúng, cầm sát ngòi bút, cầm bút chặt quá, ngồi chưa đúng tư thế, chưa biết cách để vở đúng.
 - Còn một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của các em mua sắm dụng cụ học tập không đạt yêu cầu.
 - Đa số phụ huynh không biết chữ, còn nếu biết chữ nhưng chưa nắm được cấu tạo chữ viết theo chương trình mới.
 - Vở bẩn thường do tay bẩn giây vào, khi viết sai các em thường tẩy xóa, đến khi dùng bút mực các em lại bôi mực ra, lạm dụng tẩy, tay cầm bút không đúng quy định .
 - Góc vở, mép vở quăn do các em thường lấy tay uốn góc vở để chơi. Thiếu cẩn thận khi lấy vở hoặc cất vở vào cặp .
Chương 2: Các biện pháp thực hiện:
 1. Đối với Giáo viên:
 Ngày đầu tiên nhận lớp giáo viên thông báo cho học sinh sách vở và đồ dùng học tập cần thiết đối với lớp Một, và hướng dẫn cho các em những yêu cầu cần thực hiện trong việc giữ vở như sau:
 - Vở phải bao bìa cẩn thận, có nhãn và đề tên.
 - Vở phải sạch, không giây mực, không bôi bẩn, không tẩy xóa. không quăn góc, quăn mép, không nhàu nát.
 - Trình bày bài viết trong vở phải đẹp và đúng quy định.
 Tiếp theo tôi giới thiệu cho học sinh một bộ vở đẹp (đã chuẩn bị sẵn), cho học sinh biết đâu là bìa, nhãn, góc vở, mép vở và các nội dung trình bày bên trong quyển vở.
 2. Đối với Học sinh:
 - Trước khi vào lớp tôi hướng dẫn các em lấy tất cả sách vở và đồ dùng học tập trong cặp để trên bàn ngay ngắn, gọn gàng theo thứ tự. Khi học xong sắp xếp vào cặp theo từng ngăn để sách vở khỏi bị rách.
 - Kiểm tra vệ sinh cá nhân nhất là đôi bàn tay để các em khỏi bôi bẩn vào vở.Việc làm này tôi cho các em tổ trưởng kiểm tra thường xuyên vào đầu giờ học.
 3. Đối với phụ huynh:
	Phiên họp phụ huynh HS đầu năm tôi đã trình bày rõ sự cần thiết và những yêu cầu của việc giữ vở sạch rèn chữ đẹp và đề nghị phụ huynh HS hỗ trợ một số công việc như:
 - Ở nhà sắp xếp một góc học tập phù hợp, gọn gàng, ngăn nắp như đã hướng dẫn ở lớp. Học xong môn nào cất ngay môn đó vào chỗ cũ, không để lộn xộn khó tìm mà lại dễ làm rách vở.
 - Mua sắm cho con em mình đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập chất lượng.
 - Thường xuyên quan tâm đến việc học tập của con ở nhà.
	C. PHẦN KẾT LUẬN:
	1. Kết quả thực hiện:
Qua một thời gian áp dụng, tôi thấy học sinh lớp có những chuyển biến rõ rệt về chữ viết.Viết nắn nót, cẩn thận các em luôn tự giác trong học tập, Học sinh "Giữ vở sạch-rèn chữ đẹp"đạt kết quả cao.
Kết quả cụ thể như sau:
Giai đoạn
Xếp loại
A
B
C
Đầu năm
22,22%
44,44%
33,33%
Giữa học kỳ I
33,33%
50%
16,67%
Cuối học kỳ I
50%
38,89%
11,11%
Giữa học kỳ II
66,67%
25 %
8,33%
Cuối năm
83,33%
16,67%
2. Bài học kinh nghiệm:
 - Giáo viên phải nhận thức được “Giữ vở sạch – rèn chữ đẹp” là một nhiệm vụ cần thiết trong việc nâng cao chất lượng dạy và học của bậc tiểu học, nhất là đối với HS lớp 1; từ đó phải có quyết tâm thực hiện tốt việc rèn luyện cho học sinh có nề nếp giữ gìn Vở sạch-chữ đẹp. Đây không chỉ là phong trào mà còn là công cụ để HS rèn nết người, là điều kiện để học tập tốt.
 - Có kế hoạch nghiên cứu khả năng rèn luyện học sinh có nề nếp Giữ vở sạch – rèn chữ đẹp nói chung và yêu cầu kĩ năng viết của học sinh nói riêng cần thực hiện thường xuyên, khảo sát chấm vở rèn chữ một cách cụ thể theo từng tháng.
 - Đầu năm tiến hành kiểm tra phân loại chữ viết của học sinh, phát hiện kịp thời sai sót phổ biến khi viết của từng em để có kế hoạch rèn luyện học sinh có kết quả.
 - Hướng dẫn học sinh cách trình bày bài trong vở một cách cụ thể ,khoa học để làm cơ sở cho các lớp trên.
 -Việc giữ vở và rèn chữ viết không chỉ thực hiện trong tiết tập viết mà còn thực hiện trong các hoạt động học tập ở trường cũng như ở nhà.
 - Chọn bộ vở tốt nhất lưu lại để giới thiệu cho học sinh những năm sau.
3. Ý nghĩa: 
Trong đề tài này tôi đã đề cập đến một số biện pháp rèn vở sạch chữ đẹp cho học sinh tiểu học về phân môn tập viết.
Đây là một hoạt động giáo dục quan trọng trong nhà trường. Để làm tốt công việc này giáo viên phải rèn luyện các em những phẩm chất đạo đức như: Tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật, óc thẩm mỹ, tinh thần kỷ luật, lòng tự tin Giúp các em học tập tốt các môn học khác. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải có tâm huyết với HS, tận tuỵ với nghề nghiệp, kiên trì, bền bỉ trong công việc
4. Khả năng ứng dụng:
	Trên đây là một vài biện pháp của bản thân để nâng cao chất lượng “Giữ vở sạch- rèn chữ đẹp” cho học sinh lớp 1; và được vận dụng có hiệu quả ở nhà trường trong thời gian qua.
5 . Đề nghị:
 Trong quá trình dạy học giáo viên cần chú ý một số vấn đề như sau:
 - Đến giờ học cần hướng dẫn cho các em tư thế ngồi học đúng, ngồi ngay ngắn, thẳng cột sống, vai ngang bằng ngực cách mép bàn ít nhất 1cm, chân gập thành góc vuông, vòng hai tay trên mặt bàn, mắt nhìn thẳng.
 - Khi viết bài hướng dẫn tư thế đặt vở. Để vở hơi chếch về bên trái so với mép bàn.
 - Ngồi ngay ngắn, thẳng người, đúng vị trí, lưng thẳng, không tì ngực vào bàn đầu hơi cúi, mắt cách vở khoảng 20-25cm, tay phải cầm bút, tay trái giữ vở để vở không bị xộc xệch, rách trang, rách bìa.
 - Cầm bút vừa chặt để không trượt, dùng ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa để cầm bút, hai ngón còn lại và phần dưới của bàn tay làm điểm tựa khi viết.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân đã áp dụng thành công trong thời gian dạy học ở Trường tiểu học Chiến Thắng, xin được chia sẻ với các bạn đồng nghiệp. Rất mong rằng sáng kiến kinh nghiệm này sẽ được áp dụng và phổ biến rộng rãi để chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

File đính kèm:

  • docDe_tai_SKKN_lop_1.doc