Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp chỉ đạo nội dung phương pháp hình thức giảng dạy để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh khá giỏi lớp 4, 5 trường TH Tân Lập

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

 Dạy học là hoạt động chủ đạo trong mỗi nhà trường. Chất lượng dạy học có đạt hiệu quả hay không trước hết phụ thuộc vào trình độ, năng lực của mỗi giáo viên. Giáo viên là người thực hiện phương pháp giảng dạy, là người tổ chức, điều khiển và đồng thời cũng là người trực tiếp hướng dẫn học sinh tìm ra kiến thức mới. Đặc biệt khi dạy phân môn tập làm văn mà cụ thể là thể loại văn miêu tả, giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, vững chắc, có nghệ thuật sư phạm khéo léo để khai thác và phát huy vốn ngôn ngữ tiềm ẩn trong óc tư duy sáng tạo của mỗi học sinh.

Đối với học sinh miền núi, viết văn là một nội dung khó vì môn tập làm văn mang tính đặc thù của môn học giàu trí tưởng tượng và biểu cảm. Để viết được một bài văn miêu tả hay đòi hỏi các em phải có sự quan sát tinh tế, có vốn từ phong phú, biết cảm nhận sự vật hiện tượng, biết so sánh, nhân hoá, liên tưởng và diễn đạt bằng từ ngữ, hình ảnh trôi chảy, sáng tạo.

Nội dung các bài tập làm văn lớp 4,5 gắn với các chủ điểm, có sự tích hợp rõ nét với các phân môn khác trong chương trình tiếng việt. Viết văn là cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo chủ điểm đang học, góp phần phát triển năng lực phân tích tổng hợp của học sinh. Tư duy hành động của trẻ được rèn luyện và phát triển qua việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi miêu tả. Do đó văn miêu tả có một vị trí vô cùng quan trọng.

 

doc20 trang | Chia sẻ: myhoa95 | Lượt xem: 1735 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp chỉ đạo nội dung phương pháp hình thức giảng dạy để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh khá giỏi lớp 4, 5 trường TH Tân Lập", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ rừng ( viết và thuyết trình)... 
Thông qua các hoạt động trên, giáo viên sẽ tích lũy cho mình vốn kiến thức văn học vững chắc để chuẩn bị hành trang cho việc thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy học. 
Một số lưu ý: Việc lựa chọn nội dung bồi dưỡng để tổ chức hội thi phải gắn chặt với nội dung giảng dạy hàng ngày của giáo viên và nhu cầu thực tiễn.
Các bài thuyết trình, bài viết xuất sắc cần được phổ biến rộng rãi và lưu giữ cẩn thận tại thư viện trường làm tư liệu tham khảo cho GV, HS.
Để việc bồi dưỡng được tiến hành thường xuyên, ngoài việc tổ chức các cuộc thi cần lồng ghép nội dung thuyết trình, giới thiệu trong các buổi chào cờ, hoạt động ngoài giờ lên lớp.
Chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học.
Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học của giáo viên là yếu tố quan trọng đầu tiên ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của học sinh. Đặc biệt khi dạy nội dung viết văn miêu tả, giáo viên phải có nghệ thuật để dẫn dắt học sinh cảm nhận và đến với đối tượng một cách tự nhiên, khai thác nội dung một cách khéo léo, sáng tạo, tinh tế. 
Khắc phục thực trạng học sinh nhàm chán bởi phương pháp, hình thức dạy học đơn điệu, khô cứng mà lâu nay giáo viên vẫn làm, tôi chỉ đạo giáo viên đổi mới cách thực hiện tiết dạy dựa trên hai hoạt động cơ bản sau: 
VD: Đề bài: Em hãy tả cảnh quê hương em khi mùa xuân đến.
Hoạt động 1: Hoạt động nhóm lớn.
Tổ chức trò chơi : Vẽ quê hương: Thời gian 10 - 15 phút.
( Hoạt động này thay cho bước hướng dẫn học sinh đọc đề, tìm hiểu và phân tích đề trong quy trình dạy học phân môn tập làm văn chương trình hiện hành).
1.1. Cách tiến hành: 
- GV giới thiệu trò chơi và phổ biến luật chơi : Trong tiết học hôm nay các em sẽ được tham gia trò chơi “vẽ quê hương” nhưng không sử dụng màu sắc để vẽ mà dùng ngôn ngữ (nói, viết) để tái hiện bức tranh của mình. Mỗi nhóm sẽ vẽ lại một bức tranh về quê hương khi mùa xuân đến (theo nội dung yêu cầu của đề)bằng cách liệt kê( viết ra) những hình ảnh sẽ vẽ và sắp xếp hình ảnh một cách hợp lí. Từng học sinh trong nhóm sẽ tự lựa chọn cho mình những cảnh vật yêu thích để đưa vào bức tranh và chuẩn bị nội dung thuyết trình, giới thiệu( mô tả ) về hình ảnh, đối tượng đã lựa chọn. 
- Chia nhóm, HD học sinh cách ghi nội dung vào bảng nhóm.
VD: 
Hoa đào
Cây đa
Hoa mận
Cánh đồng lúa
Dòng sông
Mặt trời
Chim chóc
Quê hương em vàoxuânvàmùa xuân
Người đi chợ tết
- HS thực hiện trò chơi.
- Các nhóm trình bày kết quả: GV hướng dẫn HS dựa vào kết quả thảo luận nhóm dùng thước chỉ và nêu lần lượt từng nội dung (như trình bày bài văn miệng).
VD: Mùa xuân trên quê hương em thật đẹp!
 Ông mặt trời sau một giấc ngủ đông dài giờ đã tỉnh giấc. 
Chị đào, chị mận thi nhau đua nở.
 Cô Hồng Nhung nổi bật, rạng rỡ bởi chiếc áo cánh màu đỏ thắm. 
Dòng sông Mã hiền hòa nằm phơi mình sưởi ấm dưới ánh nắng dịu dàng của mùa xuân. 
Xa xa, những dãy núi trập trùng, nhấp nhô; những dải mây đang trôi bồng bềnh tạo cho quê hương em một vẻ đẹp nên thơ và hùng vĩ.
 Đêm đêm, tiếng suối chảy róc rách nghe như một bản nhạc.
 Hai bên đường, chim chóc gọi nhau về tụ hội tạo nên một bản nhạc mùa xuân diệu kì.
.
- Học sinh nhận xét kết quả các nhóm bạn.
- GV nhận xét phần trình bày của các nhóm, khen ngợi học sinh biết diễn đạt trôi chảy, dùng từ hay 
- GV chốt nội dung kiến thức sau trò chơi: Bức tranh quê hương có rất nhiều cảnh đẹp làm ta thêm yêu, thêm quý. Thông qua trò chơi các em đã biết lựa chọn những hình ảnh đặc sắc để đưa vào bức tranh của mình. Khi nói đến quê 
hương, chúng ta có thể kể đến rất nhiều cảnh vật như : cây đa, giếng nước, dòng sông, con suối, ruộng lúa, đồi núi, nhà cửa, con đường, hàng câynhưng quê hương vào mùa xuân thì phải gắn với các loài hoa trong đó nổi bật là hoa đào, hoa mai, hoa mận, quất; cảnh người qua lại tấp nập trên đườngDựa vào nội dung đã trình bày các em hãy viết thành một bài văn hoàn chỉnh tả lại quê hương em khi mùa xuân đến( theo đề bài dưới đây). 
Hoạt động 2: Hoạt động cá nhân: Làm bài viết: 25 - 30 phút.
- GV treo bảng phụ ghi sẵn đề bài.
- Nhắc nhở học sinh trước khi làm bài viết.
- Học sinh viết bài.
- Nhận xét, đánh giá.
1.2. Một số lưu ý khi thực hiện: 
- Trò chơi có thể tiến hành theo hình thức nhóm đôi, nhóm lớn hoặc cá nhân.
- GV nên chuẩn bị 1 bảng mẫu để minh họa trong phần chốt nội dung sau trò chơi và chuẩn bị 1 số câu văn hay gắn với nội dung đã liệt kê để giới thiệu cho học sinh tham khảo trước khi làm bài viết.
- Trò chơi là hoạt động khởi động nhằm giảm bớt căng thẳng, tạo hứng thú cho học sinh trong học tập song lại là bước chuẩn bị quan trọng cho phần bài viết nên giáo viên phải hướng tập trung học sinh vào vấn đề cần tả theo yêu cầu của đề. 
- Chỉ đưa ra đề bài hoàn chỉnh khi kết thúc hoạt động 1 để học sinh thực hiện việc tìm hiểu đề một cách tự nhiên như đang tham gia trò chơi, không bị áp lực bởi bài văn viết.
- Trong phần trình bày kết quả thảo luận có thể để mỗi học sinh trình bày một nội dung tức là mỗi học sinh sẽ nêu miệng câu văn tả về cảnh đẹp mình thích hoặc 1 học sinh đại diện nhóm trình bày tất cả nội dung theo sự thảo luận của nhóm.
- Khi học sinh trình bày giáo viên cần chú ý sửa cách dùng từ, diễn đạt để hạn chế lỗi trong bài văn viết ở hoạt động 2.
- Phân môn tập làm văn có quan hệ chặt chẽ với các phân môn khác như: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, THXH, đạo đức nên giáo viên cần chú ý tích hợp kiến thức khi giảng dạy và rèn kỹ năng sống cho học sinh.
2. Định hướng một số nội dung kiến thức cần bồi dưỡng để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh .
	Bài văn miêu tả hay bao gồm nhiều nội dung, nhiều yếu tố. Mỗi giáo viên khi dạy học sinh viết văn miêu tả cần chú ý các nội dung cơ bản sau:
Bài văn miêu tả phải thể hiện được trọng tâm, nhấn mạnh được đặc điểm mà bản thân đặc biệt quan tâm, yêu thích.
Lựa chọn và sử dụng đa dạng các loại từ gợi tả như: từ láy, từ gợi tả hình ảnh( từ tượng hình), từ gợi tả âm thanh( Từ tượng thanh), từ gợi tả mức độ giúp cho việc miêu tả trở nên sinh động, gợi cảm, hấp dẫn, cuốn hút người đọc, người nghe và làm nổi bật trọng tâm bài miêu tả.
Hiểu rõ tác dụng dấu câu áp dụng vào văn viết.
Nắm vững các dạng cấu trúc câu: câu kể, câu cảm, câu ghép.
Vận dụng phù hợp hình thức liên kết câu trong đoạn như : thay thế từ ngữ, lặp từ ngữ.
Sử dụng hợp lí các biện pháp so sánh, nhân hoá
	Trong khuôn khổ sáng kiến này, biện pháp chỉ đạo của tôi tập trung vào 5 nội dung chủ yếu thông qua các hình thức dạy học sau: 
Lựa chọn từ ngữ.
Từ là yếu tố cấu thành câu. Muốn có câu văn hay trước hết học sinh phải phải biết lựa chọn từ ngữ phù hợp. Lựa chọn từ ngữ không phải là việc làm mới mẻ mà là việc làm thường xuyên song làm thế nào để học sinh có vốn từ phong phú và sử dụng vốn từ một cách hợp lí, chính xác, có hệ thống là vấn đề tôi đặt ra trong sáng kiến này. Theo tôi có 3 cách( hình thức tổ chức hoạt động) để khai thác kho tàng ngôn ngữ phong phú của Tiếng Việt đang tiềm ẩn trong học sinh, đó là:
Cách 1: Tổ chức trò chơi theo hình thức đồng loạt.
 VD: Đề bài: Em hãy tả lại một em bé đang tuổi tập nói tập đi.
Phương án 1: Chơi trò chơi “ Truyền điện” theo hình thức nối tiếp. 
Mỗi học sinh nêu miệng một từ tả về em bé đang tuổi tập nói, tập đi. Học sinh sau không được nêu lại từ học sinh trước đã nói, nếu không nêu được sẽ bị điện giật và bị loại khỏi cuộc chơi. GV quy định thời gian chơi, hết giờ dừng cuộc chơi, chỉ rõ từ đúng, sai và cung cấp thêm từ cho học sinh.
Phương án 2: Trò chơi “ Quả bóng tuyết”: 
HS ngồi vòng tròn truyền nhau viết từ vào giấy như cách 1 trong khoảng thời gian nhất định. Hết thời gian giáo viên treo kết quả lên bảng, nhận xét và bổ xung như phương án 1.
Cách 2: Lựa chọn từ ngữ theo hình thức cá nhân.
	GV yêu cầu mỗi học sinh tự viết từ ra giấy nháp( phiếu học tập) của mình như cách 2 sau đó đọc trước lớp, các học sinh khác nhận xét từ đúng, sai và bổ xung từ còn thiếu. Giáo viên nhận xét, đánh giá, cung cấp thêm từ cho học sinh như cách đã nêu.
Cách 3: Lựa chọn từ ngữ bằng hình thức tổ chức trò chơi theo nhóm:
	Giáo viên quy định thời gian chơi, phổ biến luật chơi, chia lớp thành các nhóm( nhóm đôi hoặc nhóm lớn). Yêu cầu học sinh thảo luận ghi từ vào bảng, trình bày trên bảng lớp, nhận xét, đánh giá như đã nêu và cung cấp, mở rộng thêm vốn từ cho học sinh .
VD: Các từ thường sử dụng để miêu tả em bé tuổi tập nói tập đi là: 
 Mũm mĩm, mập mạp, ngộ nghĩnh, dễ thương, lon ton, ngọng nghịu, líu lo, bi bô,rất xinh, xinh lắm
 Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ:
- Từ ngữ phải phù hợp với nội dung, đối tượng miêu tả.
- Hướng dẫn học sinh sử dụng kết hợp từ tượng thanh, từ tượng hình, từ láy, từ chỉ mức độ khi miêu tả.
- Khi tìm từ, học sinh thường chỉ biết liệt kê từ một cách tự nhiên chưa có hệ thống. Để giúp học sinh rèn kỹ năng hệ thống vốn từ giáo viên nên sử dụng bảng sau:
Từ thường dùng để tả đối tượng theo yêu cầu của đề.
( VD: Tả em bé tuổi tập nói tập đi)
Từ tượng hình:
Mũm mĩm, mập mạp, ngộ nghĩnh, dễ thương, lon ton
Từ tượng thanh
Ngọng nghịu, líu lô, bi bô, ê a
Từ chỉ mức độ
Rất xinh, xinh lắm
Lựa chọn hình ảnh.
Lựa chọn hình ảnh là việc định hướng giúp học sinh biết đưa vào bài viết của mình những chi tiết phù hợp khi miêu tả. Nếu định hướng không tốt học sinh sẽ tả sơ sài hoặc lạc đề vì tả không đúng đối tượng. 
Phương pháp lựa chọn hình ảnh cũng tiến hành như 3 cách lựa chọn từ ngữ đã nêu trên. 
Kết thúc hoạt động giáo viên phải giúp học sinh nhận biết được hình ảnh chính cần đưa vào bài văn miêu tả ứng với mỗi đề cụ thể và hình ảnh phụ minh họa làm sinh động bài viết.
VD: Đề bài : Em hãy tả cảnh nhộn nhịp của trường em trong giờ ra chơi.
HS chơi cướpcờ cờ
Với đề trên để giúp học sinh tả đúng trọng tâm, tức là đưa vào bài viết những hình ảnh hợp lí khi miêu tả, GV có thể tổ chức cho học sinh hoạt động đồng loạt, nhóm, cá nhân, tổ chức trò chơi và trình bày kết quả theo bảng minh họa sau:
HS đá cầu
HS nhảy dây
HS đọc truyện
Cảnh nhộn nhịp của sân trường em giờ ra chơi
HS tập thể dục
Hoa lá trên sân
Trường
Chim chóc nhảy nhót cùng các bạn HS
Ông mặt trời ghé xem các bạn học sinh vui chơi
Kết thúc hoạt động giáo viên phải giúp học sinh định hình được những hình ảnh cần đưa vào bài văn tả cảnh sân trường em giờ ra chơi là hoạt động của học sinh( hình ảnh chính), ông mặt trời, hoa lá, cỏ cây, chim chóc ( chỉ là hình ảnh phụ làm sinh động hơn cho bài viết).
1.3. Sử dụng hình ảnh đối lập khi miêu tả.
	Sử dụng hình ảnh đối lập khi miêu tả là biện pháp đưa ra các hình ảnh trái ngược nhau để miêu tả sự thay đổi, sự phát triển của đối tượng nhằm làm tăng giá trị gợi tả, gợi cảm, biểu cảm của đối tượng và làm cho bài viết có sức thuyết phục cao hơn. Để minh họa cho việc sử dụng hình ảnh đối lập, tôi xin trình bày một số ví dụ cụ thể sau:
VD1: Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về dòng sông.
 Vào thu, nước sông trong vắt. Dòng sông hiền hòa nằm phơi mình giữa cánh đồng lúa xanh mướt. Từ xa nhìn lại, dòng sông là một dải lụa mềm . Hè về, nước sông đục ngầu. Dòng sông giống một con trăn khổng lồ đang giận dữ, vỗ nước oàm oạp vào bờ như muốn nuốt chửng, cuốn trôi vạn vật. 
	Trong đoạn văn trên, tôi đã sử dụng các hình ảnh đối lập: 
Nước sông trong vắt - nước sông đục ngầu
Dòng sông hiền hòa – Dòng sông giận dữ
Dòng sông là một dải lụa mềm - Dòng sông là một con trăn khổng lồ
để miêu tả sự thay đổi của con sông theo mùa. Các hình ảnh đó có tác dụng gợi tả rất cao làm tăng sức thuyết phục của bài văn.
VD2: Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về cây bàng. 
	Mới hôm nào cây bàng chỉ có vài chiếc lá lác đác mọc trên những chiếc cành khẳng khiu. Vậy mà giờ đây mỗi cành bàng là một cánh tay lực lưỡng. Mỗi tán bàng là một chiếc ô khổng lồ che mát cả một góc sân trường.
	Sử dụng các hình ảnh đối lập:
Cây bàng lác đác vài chiếc lá - Mỗi tán bàng là một chiếc ô khổng lồ
Cành khẳng khiu - mỗi cành bàng là một cánh tay lực lưỡng
để miêu tả sự phát triển rất nhanh chóng của cây bàng theo thời gian. 
VD3: Sử dụng hình ảnh đối lập để miêu tả về một người mẹ liệt sĩ.
	Bông hoa rực rỡ của làng Hồng Dương ngày ấy giờ đây đã trở thành một người mẹ khắc khổ, lam lũ vì phải chống chọi với những khó khăn, nghiệt ngã của cuộc đời. Thay vào nước da trắng hồng, mịn màng là một làn da khô ráp điểm những chấm đồi mồi. Trên đôi mắt sáng long lanh của mẹ luôn hằn chứa cái nhìn tuyệt vọng và nỗi đau mất mát.
	Các hình ảnh đối lập:
Bông hoa rực rỡ của làng Hồng Dương - người mẹ khắc khổ, lam lũ
Nước da trắng hồng, mịn màng - làn da khô ráp điểm những chấm đồi mồi
Đôi mắt sáng long lanh - cái nhìn tuyệt vọng và nỗi đau mất mát
nhằm nhấn mạnh sự vất vả, lam lũ và ca ngợi sự hi sinh của người mẹ liệt sĩ. Việc đưa ra các hình ảnh đối lập đó sẽ gây xúc động, tạo được cảm xúc cao với người đọc.
* - Một số lưu ý khi sử dụng hình ảnh đối lập:
- Hình ảnh đối lập phải phù hợp với đặc điểm của đối tượng miêu tả.
- Hình ảnh đối lập phải phù hợp với thời gian, không gian.
- Hình ảnh đối lập phải mang dấu ấn đặc trưng điển hình, tiêu biểu của đối tượng miêu tả và tạo được cảm xúc với người đọc.
Sử dụng câu cảm khi miêu tả.
Câu cảm là loại câu bộc lộ cảm xúc, tình cảm của người viết. Sử dụng câu cảm khi miêu tả tức là thông qua câu cảm để bộc lộ cảm xúc, tình cảm của mình với đối tượng được tả. Cảm xúc tự nhiên, chân thành ấy dễ cảm hóa người đọc, người nghe ngay từ câu mở đầu bài viết hoặc đọng lại trong phần kết của bài viết. Vì vậy, tôi đã chỉ đạo giáo viên rèn kĩ năng viết câu cảm thán cho học sinh khi viết văn miêu tả để làm tăng giá trị bài viết.
VD1: Mùa xuân trên quê hương em thật là đẹp! ( Câu cảm dùng để giới thiệu)
VD2: Ôi, Mùa hè đã đến! ( Câu cảm bộc lộ cảm xúc tự nhiên)
VD3: Hoa phượng đẹp quá! ( Cảm giác thích thú)
VD4: Mùa xuân trên quê hương em là vậy đó! Mùa xuân tuyệt đẹp! Em yêu mùa xuân! ( Tình cảm yêu mến, dùng để kết thúc bài).
Sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp ngữ khi viết văn.
1.5.1. Cách tiến hành: 
Khi học sinh đã nắm vững yêu cầu của đề tức là xác định được đối tượng, nội dung cần tả; để bài văn có điểm nhấn, tôi chỉ đạo giáo viên thực hiện hoạt động rèn kỹ năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp ngữ cho học sinh để đưa vào bài văn viết. Cách tiến hành như sau:
VD: Đề bài tả về cây cối.
Cách 1: Hoạt động cá nhân trên phiếu học tập hoặc giấy nháp theo nội dung yêu cầu sau:
Tả cây cối 
Các biện pháp nghệ thuật dùng để miêu tả
Câu
Biện pháp nghệ thuật so sánh
Mỗi chiếc rễ là một con rắn khổng lồ bám chặt lấy mặt đất để giúp cây chống trọi với những trận gió lớn.
Mỗi tán lá là một chiếc ô nhỏ che mát cho chúng em.
Mỗi búp lá là một ngọn nến màu xanh.
Biện pháp nghệ thuật nhân hoá
Mỗi lần nhìn thấy em, cây lại giơ những cánh tay nhỏ bé ra để vẫy chào.
Được em chăm sóc, cây thì thầm nói: “ Cảm ơn bạn nhỏ”
.
Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ
Mùa hè đến, rực đỏ khắp sân trường màu hoa phượng.
Biện pháp nghệ thuật điệp ngữ
Ôi, hoa phượng! Hoa phượng đã nở rồi. Hoa phượng đẹp biết bao. Hoa phượng chính là hoa học trò. Hoa phượng là người bạn thân thiết của chúng mình đấy!...
	Cách 2: Hoạt động nhóm hoặc tổ chức trò chơi.
	Giáo viên chia nhóm(đội) chơi, giao nhiệm vụ như đã trình bày trong phiếu ở cách 1. 
Yêu cầu học sinh các nhóm( đội) ghi kết quả vào phiếu.
Nhận xét, đánh giá, sửa chữa, bổ xung.
1.5.2. Những điểm cần lưu ý: Khi sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp ngữ giáo viên cần giúp học sinh hiểu rõ:
- Hình ảnh so sánh phải hợp lí tức là có sự liên quan, nét tương đồng giữa đối tượng so sánh và đối tượng được so sánh.
- Biện pháp nhân hóa dùng cho đối tượng miêu tả là đồ vật, con vật, cây cối, sự vật( không dùng cho người).
- Sử dụng biện pháp đảo ngữ, điệp ngữ khi muốn nhấn mạnh một nội dung nào đó nhằm làm tăng sức biểu cảm.
- Khi tổ chức hoạt động theo nhóm/ trò chơi Gv có thể chia nhỏ nội dung thảo luận cho các nhóm/ đội tức là mỗi nhóm sử dụng một hoặc hai biện pháp nghệ thuật so sánh/ nhân hóa/ điệp ngữ/ đảo ngữ hoặc tất cả các nhóm/đội cùng thực hiện chung một nhiệm vụ giống nhau như hoạt động cá nhân.
IV. Kiểm nghiệm:
Với biện pháp cụ thể đã nêu trên, trong quá trình chỉ đạo chuyên môn ở trường Tiểu học Tân Lập tôi đã giúp giáo viên, học sinh nhà trường giảng dạy, học tập môn tập làm văn đạt hiệu quả cao hơn. Kết quả khảo sát giáo viên, học sinh cuối học kì 2 cụ thể như sau:
 a, Học sinh: Tổng số HS khá giỏi khối 4,5: 39 em, trong đó:
Các yêu cầu khi viết văn miêu tả
Số lượng
Tỉ lệ
Sử dụng từ ngữ chính xác, hay.
30/39
76.9%
Lựa chọn hình ảnh phù hợp
32/39
82.1%
Sử dụng hình ảnh đối lập trong bài viết
23/39
58.9%
Sử dụng câu cảm thán để làm tăng sức biểu cảm trong bài viết
27/39
69.2%
Sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá, đảo ngữ, điệp ngữ khi viết văn.
39/39
100%
 Kết quả đánh giá chung chất lượng bài viết của học sinh.
Tổng số
Giỏi
Khá
SL
Tỉ lệ
SL
Tỉ lệ
39
23
58,9%
16
41,1%
	So với kết quả khảo sát ban đầu, tỉ lệ giỏi tăng 38.4%. Kết quả trên chứng tỏ việc đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức dạy học của giáo viên đã tác động trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. 100% học sinh khá giỏi của trường Tiểu học Tân Lập khi viết văn miêu tả đã biết đưa vào bài viết của mình những từ ngữ hay, hình ảnh phù hợp, độc đáo và sử dụng thành thạo các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp ngữ... khi miêu tả đối tượng. Đặc biệt học sinh yêu thích môn học hơn và rất hứng thú khi học môn tập làm văn.
b, Giáo viên: Kết quả kiểm nghiệm chất lượng giờ dạy cuối học kì 2 năm học 2012 – 2013.
Tổng số
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại Yếu
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
14
5
35.7%
7
50%
2
14.3%
0
0
	Hiện nay, 100% giáo viên nhà trường đều áp dụng các biện pháp tôi đã nêu vào tiết dạy tập làm văn. So với kết quả khảo sát ban đầu tỉ lệ giỏi tăng 35.7 %, không còn tỉ lệ yếu, tỉ lệ trung bình giảm đi rõ rệt. Giáo viên và học sinh tự tin hơn, không còn bị áp lực, căng thẳng khi giảng dạy, học tập môn tập làm văn.
PHẦN III : KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT.
Qua cách làm trên, tôi nhận thấy, mỗi giáo viên muốn dạy tốt môn tập làm văn nói chung và dạy tập làm văn miêu tả nói riêng cần phải chú ý hai yếu tố cơ bản đó là: phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và nội dung dạy học. 
Về phương pháp, hình thức dạy học giáo viên phải vận dụng sáng tạo chuyên đề trò chơi học tập ở Tiểu học để xây dựng các trò chơi học tập phù hợp với từng nội dung bài học, phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình phụ trách. 
Về nội dung, để rèn kỹ năng viết văn miêu tả cho học sinh giáo viên phải chú ý rèn các kỹ năng: lựa chọn từ ngữ, lựa chọn hình ảnh, sử dụng hình ảnh đối lập, câu cảm thán, các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, đảo ngữ, điệp ngữ khi miêu tả.
Ngoài các yếu tố trên, giáo viên phải chú ý khắc phục các lỗi viết văn của học sinh cả về nội dung và hình thức trình bày như lỗi về chính tả, lỗi viết câu, lỗi về ngữ pháp, lỗi về bố cục, lỗi diễn đạt, lỗi trình bày để bài văn đạt hiệu quả cao.
Trong sáng kiến này tôi chỉ đề cập đến đối tượng là học sinh khá giỏi khối 4,5 ở trường Tiểu học Tân Lập và thể loại là văn miêu tả nhưng tôi nghĩ sáng kiến có thể mở rộng để áp dụng cho mọi đối tượng học sinh ở các vùng miền khác nhau.
Việc rèn kĩ năng viết văn nói chung( văn miêu tả nói riêng) cho học sinh khá giỏi không bị hạn định thời gian nên với mỗi đề văn miêu tả giáo viên nên luyện kĩ các thao tác: Lựa chọn hình ảnh - Lựa chọn từ ngữ - Lưạ chọn hình ảnh đối lập – Viết câu cảm thán - Sử dụng các biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, đảo ngữ, điệp ngữ trước khi học sinh viết bài để tạo điểm nhấn cho bài viết. 
Trên đây là một sáng kiến nhỏ của bản thân tôi trong quá trình chỉ đạo chuyên môn ở trường Tiểu học Tân Lập.
Bản thân tôi còn rất nhiều thiếu xót trong quá trình viết sáng kiến. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo .
Tôi xin chân thành cảm ơn.
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
 Trương Thị Kim
Thanh Hóa, ngày 20/3/2013
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Người viết sáng kiến:
 Nguyễn Thị Hồng

File đính kèm:

  • docskkn_bien_phap_chi_dao_noi_dung_phuong_phap_hinh_thuc_giang_day_de_ren_ky_nang_viet_van_mieu_ta_cho.doc
Sáng Kiến Liên Quan