Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy môn Lịch sử lớp 8
Phần I
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đưa đất nước ngày càng hoà nhập với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI. Để trở thành một quốc gia giàu mạnh và phồn vinh, có rất nhiều nhiệm vụ đặt ra trong các lĩnh vực, trong đó đặc biệt quan tâm và được đánh giá là cốt yếu đó là nhiệm vụ đặt ra trong quá trình giáo dục. Bởi mục đích đặt ra của nền giáo dục cách mạng Việt Nam là phát triển nhân cách cho học sinh, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, lao động. Ở tất các bậc học hết sức coi trọng giáo dục tư tưởng nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo, năng lực thực hành. Hơn nữa hiện nay trình độ khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, để có công trình kiến trúc với những trang bị thiết kế hiện đại như thế giới ngày nay đòi hỏi con người phải có trình độ thật sự, có khả năng tiếp thu nhanh chóng nền văn hoá của nhân loại, nhanh chóng nắm bắt những đổi mới để áp dụng vào thực tiễn. Bởi công tác giảng dạy và học tập đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với thế giới ngày nay. Để đảm bảo chất lượng trong việc đào tạo con người đòi hỏi nhà trường phải có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, có trình độ chuyên môn thật sự, đồng thời có kiến thức đối với các môn học có liên quan, để đào tạo ra những thế hệ tương lai có một trình độ cập nhật và có nhân cách phát triển toàn diện.
sinh. Trước tiên, hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học lịch sử là do nhiều yếu tố quyết định như: Chất lượng đồ dùng trực quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử,. Phương pháp sử dụng, kỹ năng và năng lực sư phạm của người giáo viên, đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Vì đồ dùng trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức: “Tai nghe – Mắt thấy” tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, gây được mối quan hệ thần kinh tạm thời khá phong phú; phát huy ở học sinh năng lực chú ý, quan sát, niềm say mê, hứng thú đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại, nếu không sử dụng đồ dùng trực quan đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán tư tưởng, không tập trung vào các dấu hiệu, nội dung chính, thậm chí hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của học sinh. Thực tế giảng dạy ở Trường THCS nói chung và trường THCS Yên Ninh nói riêng cho thấy: Không ít giáo viên đã coi nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan hoặc khi phải sử dụng thì chủ yếu là minh hoạ một cách tẻ nhạt, cho học sinh xem qua loa mang tính hình thức, chứ không dùng trong khi giảng dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải tăng cường sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy và học tập. Để đáp ứng yêu cầu dạy và học lịch sử cũng như khắc phục tình trạng trước đây thì chúng ta cần phải biết kết hợp hài hoà giữa nội dung bài học và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực quan. Tuy nhiên mỗi loại đồ dùng trực quan đều có những phương pháp sử dụng riêng, sao cho phù hợp với nội dung của bài học ở mỗi tiết dạy, gây được niềm say mê, hứng thú học tập, đặc biệt là tính tích cực hoạt động, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu. 3. Thực trạng dạy học môn lịch sử ở Trường THCS nói chung và trường THCS Yên Ninh nói riêng: 3.1. Ưu điểm: * Về phía giáo viên: Đại đa số giáo viên đều cố gắng tìm hiểu đưa ra những phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học: Nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, thảo luận nhóm, trực quan, lập niên biểu, vấn đáp, Thông qua trình bày sinh động giàu hình ảnh của giáo viên trong tường thuật, miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật lịch sử; giáo viên đã tích cực hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận nhóm, so sánh, giải thích một cách tích cực. Giúp học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, hiểu sâu hơn về bản chất, vai trò và ý nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy giáo viên đã kết hợp các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ SGK, hiện vật, phim máy chiếu,từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử. * Về phía học sinh: Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời câu hỏi ở cuối mục trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên lược đồ cho nên khi học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy, tích cực thảo luận nhóm, đưa ra các tình huống có vấn đề và tìm cách giải quyết. Trong quá trình lĩnh hội kiến thức học sinh đang cố gắng học hỏi lẫn nhau để nắm bắt kiến thức cơ bản thông qua hoạt động thảo luận, vấn đáp, đọc sách giáo khoa, quan sát lược đồ, tranh ảnh,các em đã mạnh dạn trình bày diễn biến trên lược đồ, lập niên biểu lên bảng, trả lời các câu hỏi hay ghi nhớ các sự kiện, nhân vật một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. 3.2. Hạn chế: * Về phía giáo viên: Vẫn còn một số ít giáo viên chưa thực sự thay đổi hoàn toàn phương pháp dạy học cho phù hợp với từng tiết dạy, chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức như: vẫn còn sử dụng phương pháp “thầy nói – trò nghe”, “thầy đọc – trò chép”. Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn vào sách giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên. Thiết bị môn lịch sử (bản đồ, hiện vật,) còn thiếu, các tranh ảnh, lược đồ sách giáo khoa thì một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác sơ sài hoặc quan sát qua loa. Cũng có khi giáo viên yêu cầu học sinh vẽ lược đồ mà không hướng dẫn kĩ càng, học sinh không biết cách vẽ nên tiết dạy không có lược đồ, đặc biệt là với trường THCS Yên Ninh, do thiếu giáo viên bộ môn nên có những giáo viên đào tạo trái ban (môn Văn) phân công giảng dạy bộ môn Lịch sử, khiến cho việc sử dụng phương pháp đồ dùng trực quan càng khó khăn, dẫn đến tiết học nhàm chán, học sinh nắm bắt kiến thức mơ hồ, mau quên nên kết quả học tập của học sinh chưa cao. Một số tiết học giáo viên chỉ nêu vài ba câu hỏi và huy động học sinh khá, giỏi trả lời; chưa có câu hỏi giành cho học sinh yếu kém nên các đối tượng học sinh yếu kém ít được tham gia hoạt động, dễ chán nản môn học của mình. Một số ít giáo viên lại đặt ra những câu hỏi hơi khó mà không có hệ thống câu hỏi gợi mở nên học sinh không trả lời được, nhiều khi giáo viên trả lời thay cho học sinh. Vấn đề này được thể hiện rõ trong hoạt động quan sát tranh ảnh, thảo luận nhóm, giáo viên chỉ biết nêu ra câu hỏi mà không gợi ý, không hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi như thế nào. Vì không có câu hỏi gợi mở để giải quyết vấn đề nên học sinh không trả lời được,... * Về phía học sinh: Học sinh thường trả lời câu hỏi do giáo viên đặt ra thông qua việc nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có sự độc lập tư duy. Một số học sinh còn đọc nguyên sách giáo khoa để trả lời câu hỏi, học sinh cá biệt còn lười học thậm chí không ghi bài, không chuẩn bị bài mới ở nhà, trên lớp không tập trung suy nghĩ cho nên việc ghi nhận các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Bởi vậy học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi dễ, còn một số câu hỏi tổng hợp, phân tích, so sánh, giải thích,thì học sinh trả lời còn lúng túng hoặc mang tính chất chung chung, không rõ ràng. * Số liệu điều tra cụ thể: Tôi được Ban Giám hiệu phân công dạy học môn Lịch sử lớp 8 và lớp 7. Trong quá trình giảng dạy với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh đồng thời tôi tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy. Việc điều tra hiện thực thông qua sử dụng đồ dùng trực quan, thảo luận, hỏi đáp để phát triển tư duy học sinh ở trên lớp; kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phát, kiểm tra 1 tiết ...Từ kết quả kiểm tra tôi nhận thấy đa số học sinh chỉ trả lời được những câu hỏi mang tính chất trình bày; còn những câu hỏi ở mức độ khá và giỏi như so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá nhận thức thì các em còn rất lúng túng. Do vậy kết quả điều tra cũng không cao cụ thể là: Đầu năm học 2015 – 2016 tôi tiến hành điều tra ở 2 lớp 8 môn Lịch sử, kết quả khảo sát như sau: Lớp (SS) Giỏi (TL) Khá (TL) TB (TL) Yếu (TL) Kém (TL) 8A (30) 2 (6,6 %) 11 (36,6%) 13 ( 43,3 %) 4 (13,3%) 0 8B (29) 1( 3,4%) 10 (34,4%) 15 (51,7 %) 3 (10,3 %) 0 4. Mô tả, phân tích đề xuất một số phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học môn Lịch sử lớp 8 đạt hiệu quả cao: Chương trình môn Lịch sử lớp 8, bậc THCS được quy định theo phân phối chương trình là 1,5 tiết/ tuần, học Lịch sử thế giới + Việt Nam. Hai phần kiến thức lịch sử thế giới và Việt Nam có quan hệ chặt chẽ với nhau, đặc biệt là ở phân kì lịch sử thế giới hiện đại. Điều này giúp cho học sinh nhận thức đúng về mối quan hệ giữa cộng đồng người ở các châu lục trong quá trình phát triển đi lên của xã hội loài người. Học sinh lớp 8 chỉ học khái quát về thời kì lịch sử thế giới (Lịch sử thế giới cận đại từ giữa thế kỉ XVI đến năm 1917), giúp các em nắm được tiến trình của lịch sử thế giới cận đại và những nội dung chính của thời kì này; phần lịch sử Việt Nam các em học giai đoạn từ năm 1858 đến năm 1918, giúp các em nắm được tình hình Việt Nam trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX và những biến đổi trong xã hội Việt Nam từ năm 1897 đến năm 1918. Cấu tạo chương trình lịch sử như vậy khắc phục đựơc hai khuynh hướng tư tưởng, quan điểm sai lệch về mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Khi cung cấp nội dung kiến thức cho học sinh cần tập trung vào một số công việc chủ yếu cơ bản nhất để phát huy tính tích cực học tập cho học sinh, đó là nắm vững kiến thức cơ bản. Kiến thức cơ bản về lịch sử mà học sinh cần nắm bao gồm nhiều yếu tố, sự kiện, niên đại, địa điểm, nhân vật, bài học kinh nghiệm lịch sử, quy luật, nguyên lí về sự phát triển của xã hội loài người, các khái niệm, thuật ngữ và cả phương pháp học tập. Do đặc điểm của việc học tập lịch sử - không trực tiếp quan sát các sự kiện – nên phương pháp trực quan có ý nghĩa rất quan trọng. Có nhiều loại đồ dùng trực quan khác nhau, cách sử dụng và hiệu quả cũng khác nhau, song đều có tác dụng nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Sau đây, tôi xin mạnh dạn đưa ra những phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan mà mình đã áp dụng trong thực tiễn giảng dạy ở bộ môn Lịch sử lớp 8 (8A, 8B), trường THCS Yên Ninh: 4.1. Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa: Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có tác dụng rất lớn trong dạy học lịch sử, nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá khứ một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực Ví dụ: Bức ảnh của Tôn Trung Sơn và cách mạng Tân Hợi 1911(hình 44) SGK lớp 8 trang 61, Áp phích năm 1921 – “chúng ta tuyên chiến với hậu quả của chiến tranh” – nói về tình hình đất nước năm 1921 – 1925 ở Liên Xô (hình 58) SGK lịch sử lớp 8, bức tranh “Bãi đỗ ô tô ở Niu Oóc năm 1928” (hình 65) và bức tranh “Công nhân xây dựng cao ốc ở Mĩ” (hình 66) sách giáo khoa lịch sử lớp 8 trang 93 trong bài nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 - 1939), hay bức ảnh về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước 1862 (hình 85), sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 trang 117; hoặc bức tranh “”tàu Đô đốc La-tu-sơ Tơ-rê-vin” hình 10, sách giáo khoa Lịch sử lớp 8, trang 148, giới thiệu về con tàu Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 tại bến cảng nhà Rồng Những tranh ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc tính chất sự kiện lịch sử thế giới nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng, tạo cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ. Ví dụ: Khi các em ngắm nhìn bức tranh cảnh làng quê đang vào mùa gặt hái với những chiếc máy cày đang thay thế sức trâu (bò) hay những hình ảnh như: Nông dân Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc (hình 99 – sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 – trang 140), ảnh “Ga Hà Nội năm 1900” (hình 98), ảnh “Quân Pháp tấn công Đại đồn Chí Hoà” (hình 84) sách giáo khoa lịch sử 8. Qua các hình ảnh học sinh khắc sâu các sự kiện lịch sử: sự phát triển của cách mạng trong thời kì chiến tranh bảo vệ chính quyền cách mạng, chống chủ nghĩa đế quốc. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát các tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Do học sinh thích xem tranh lịch sử nhưng ít biết khai thác nội dung của tranh phục vụ cho bài học. Để sử dụng có hiệu quả, giáo viên cần hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung bức tranh, sau đó giáo viên bổ sung, sửa chữa để các em hiểu bức tranh đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn. Ví dụ: Khi sử dụng bức về “Trương Định nhận phong soái” sau hiệp ước 1862 (hình 85), sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 trang 117 , giáo viên cần đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh biêt: Trương Định là người như thế nào? Qua cảnh tượng Trương Định không nhận sắc phong của triều đình mà nhận chức do nhân dân phong, em có suy nghĩ gì về Trương Định? Yêu cầu lớp trao đổi, thông qua sự gợi ý của giáo viên và một, hai học sinh trả lời, giáo viên mới giải thích và nhận xét. Tất cả những ý trên đều giúp học sinh nắm được cuộc chiến tranh chính nghĩa luôn được nhân dân ủng hộ nhất định sẽ thắng lợi. Tuy lực lượng quân sự còn ít, vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã tích cực hoạt động góp phần rất quan trọng vào thắng lợi của cách mạng. Hiện nay kênh hình trong sách giáo khoa tương đối đầy đủ, do vậy việc sử dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu và khắc sâu bài học lịch sử, phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh là hiệu quả nhất. Hình ảnh, tranh vẽ trong sách giáo khoa có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác dụng giáo dục tư tưởng, tình cảm mà còn phát triển tư duy học tập bộ môn lịch sử của học sinh. Sử dụng tốt loại phương tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực, chủ động, tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức. Từ việc quan sát học sinh sẽ đi tới công việc tư duy trừu tượng, nhưng quan sát tranh ảnh không thể gây ra sự chú ý, tích cực trong việc nhận thức vấn đề của học sinh nếu không có sự hướng dẫn của giáo viên. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh, rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú, trong sáng. Vì vậy trong dạy học lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để nội dung lịch sử được biểu hiện qua tranh ảnh, hình vẽ trong sách giáo khoa, đồng thời khi sử dụng cần kết hợp sử dụng câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật, phân tích để nắm được kiến thức lịch sử biểu hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan sát học sinh cần nêu lên suy nghĩ của mình để các bạn trong lớp nhận xét, bổ sung cho hoàn thiện. Mỗi ý kiến, phát biểu của các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để giáo viên đánh giá trình độ của học sinh và uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các em. Trong những điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận của các em khi quan sát một bức tranh hay một hình vẽ. Ví dụ: Khi dạy bài 22: “Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và văn hoá thế giới nửa đầu thế kỉ XX”, sách giáo khoa Lịch sử 8, trang 109 – 112, khi dạy mục I, giáo viên cho học sinh xem các bức tranh: Giáo viên giới thiệu và phát vấn học sinh “Các em hãy quan sát bức tranh hình 81 và những phát minh khoa học nửa cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX và rút ra nhận xét?” Sau khi lớp trao đổi, giáo viên gợi ý và học sinh trả lời, giáo viên mới giải thích rõ hơn về các bức tranh cho học sinh hiểu. Sau đó giáo viên có thể giới thiệu thêm cho học sinh biết về nguồn gốc của ngành hàng không thế giới, chiếc máy bay đầu tiên trên thế giới được chế tạo thành công khi nào và gắn liền với tên tuổi của ai?.....Từ đó giáo viên cho học học sinh rút ra ý nghĩa của những thành tựu khoa học – kĩ thuật nửa đầu thế kỉ XX? 4.2. Phương pháp sử dụng các tranh ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử: Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.vgiáo viên sử dụng để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm, tính cách, tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng giáo viên không nên miêu tả quá nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật những nét tính cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để cho học sinh hiểu nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy bài 15. .“Cách mạng tháng Mười Nga 1917 và công cuộc đấu tranh bảo vệ cách mạng 1917 - 1921” mục I.3 và mục II sách giáo khoa Lịch sử 8 (trang 75 - 82), học sinh không thể không biết đến hình ảnh Lê-nin đã khởi thảo ra “Bản luận cương tháng 4” với khẩu hiệu “Tất cả chính quyền về tay Xô Viết” và hình ảnh Lênin trực tiếp lãnh đạo Hồng quân Liên Xô đánh chiếm “Cung điện mùa Đông” giành thắng lợi, giáo viên cần nêu thêm những nét tiêu biểu nhằm giúp HS có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng nổi tiếng này. Ví dụ: Khi nói về Lê-nin "Lênin là người kế tục, phát huy những quan điểm, lý luận về cách mạng vô sản do Mác-Engghen đưa ra và phát triển nó thành một hệ thống hoàn chỉnh về cách mạng vô sản hay còn gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin" Hoặc: Khi dạy về bài 22: “Sự phát triển của khoa học kĩ thuật và văn hoá thế giới nửa đầu thế kỉ XX”, sách giáo khoa Lịch sử 8, trang 109 – 112, giáo viên có thể giới thiệu cho học sinh chân dung những nhà khoa học tiêu biểu thời kì này như: Hồng quân chiếm Cung điện Mùa Đông Cách mạng tháng Mười thành công Trên cơ sở giới thiệu cho các em đi tìm hiểu về chân dung các nhà khoa học, nhà văn xuất sắc của nước Nga Xô Viết đầu thế kỉ XX, giáo viên có thể cho học sinh trả lời câu hỏi: Qua quan sát chân dung các nhà khoa học và các nhà văn xuất sắc của nước Nga Xô viết, bản thân em có suy nghĩ gì? Giáo viên cho học sinh tự phát biểu cảm tưởng của mình, nhằm nuôi dưỡng hoài bão ước mơ vươn lên phấn đấu học tập để những công dân có ích cho xã hội. Tóm lại, việc sử dụng kênh hình đã in trong sách giáo khoa hoặc tranh ảnh trên máy trình chiếu có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao kiến thức của học sinh trong học tập bộ môn lịch sử. Bởi các hình ảnh rỏ ràng, cụ thể của kênh hình không chỉ giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh những cảm xúc lịch sử trong tâm hồn các em. Đặc biệt là các ảnh chân dung còn tạo điều kiện giáo dục thẩm mĩ cho các em và điều chủ yếu nhất là với hình ảnh cụ thể đó sẽ nâng cao sự hấp dẫn của học sinh đối với bộ môn Lịch sử, làm cho kiến thức của các em thêm phong phú, sinh động và sâu sắc. 4.3. Phương pháp sử dụng bản đồ, niên biểu, lược đồ, sơ đồ: Bản đồ, niên biểu, lược đồ là những đồ dung trực quan quy ước không thể thiếu được trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học lịch sử lớp 8 nói riêng. Nhờ có những đồ dùng trực quan này mà học sinh có biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta cũng biết mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với mốc thời gian và không gian nhất định, nếu ta tách sự kiện lịch sử khỏi không gian và thời gian ta sẽ không hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử sẽ không chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền với mỗi địa điểm đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian, thời gian cũng như đặc điểm điều kiện tự nhiên của địa điểm đó. Bản đồ lịch sử nhằm xác định địa điểm của sự kiện trong thời gian và không gian nhất định. Đồng thời bản đồ lịch sử còn giúp học sinh suy nghĩ và giải thích các hiện tượng lịch sử về mối liên hệ nhân quả, về tính quy luật và trình tự phát triển của quá trình lịch sử, giúp các em củng cố, ghi nhớ những kiến thức đã học. Về hình thức, bản đồ lịch sử không càn có nhiều chi tiết về điều kiện thiên nhiên (khoáng sản, sông, núi.) mà cần có những kí hiệu về biên giới các quốc gia, sự phân bố dân cư, thành phố, các vùng kinh tế, địa điểm xảy ra những biến cố quan trọng (các cuộc khởi nghĩa, cách mạng, chiến dịch. Ví dụ: Lược đồ cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế trong sách lịch sử lớp 8; hay lược đồ hình 45 sách giáo khoa lịch sử 8. Lược đồ Cách mạng Tân Hợi). Các minh hoạ trên bản đồ phải đẹp, chính xác, rõ ràng. Về nội dung, bản đồ lịch sử có thể chia làm 2 loại bản đồ tổng hợp và bản đồ chuyên đề. Bản đồ tổng hợp phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng nhất của một nước hay nhiều nước có liên quan ở một thời kì nhất định, trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Ví dụ bản đồ “Các nước đế quốc và thuộc địa đầu thế kỉ XX”, hay bản đồ “Châu Âu giữa hai cuộc chiến tranh thế giới”..; Bản đồ chuyên đề nhằm diễn tả những sự kiện riêng rẽ hay một mặt của quá trình lịch sử. ví dụ: lược đồ “Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất”; lược đồ “nội chiến ở Pháp 1871” MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG Phần I: MỞ ĐẦU...... Lí do chọn đề tài. Mục đích nghiên cứu.............. Phạm vi nghiên cứu............... Nhiệm vụ nghiên cứu........................ Phương pháp nghiên cứu............... Đóng góp của đề tài....... Kế hoạch nghiên cứu. ............. 01 01 03 03 03 04 04 05 Phần II: NỘI DUNG. . Cơ sở lý luận.. Cơ sở thực tiễn ................. Thực trạng dạy học môn Lịch sử ở trường THCS nói chung và trường THCS Yên Ninh nói riêng Mô tả, phân tích đề xuất một số phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học môn Lịch sử lớp 8 đạt hiệu quả cao................................... Kết quả khi áp dụng đề tài .................. Bài học kinh nghiệm 06 06 07 08 11 30 31 Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . 32 Tài liệu tham khảo .. 34
File đính kèm:
- SKKN SỬ 2017 - 2018 NGỌC ĐÃ SỬA (1)_2.docx