Mẫu: Báo cáo tóm tắt sáng kiến
BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Đồng tác giả:
1.1. Họ và tên: Đỗ Thị Hòa
Năm sinh: 1972
Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
1.2. Họ và tên: Phùng Thanh Thủy
Năm sinh: 1983
Nơi thường trú: Mường Than, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Cao đẳng
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
1.3. Họ và tên: Đỗ Thị Kim Dung
Năm sinh: -
Nơi thường trú: Khu 1, thị trấn Than Uyên, Than Uyên, Lai Châu
Trình độ chuyên môn: Đại học
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nhiệm vụ được phân công: Giáo viên chủ nhiệm
2. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2a4 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên”
3. Tính mới và sự khác biệt
* Tính mới: Qua việc áp dụng hai biện pháp đã nêu trên chúng tôi nhận thấy:
Đối với học sinh: Các em có thói quen xác định các dạng toán trước khi giải toán, nắm chắc các dạng toán đã học, tóm tắt bài toán đúng và nhanh, lựa chọn phép tính và lời giải chính xác, hiểu rõ bản chất của bài toán. Mạnh dạn, tự tin khi học toán.
án theo tóm tắt, hình vẽ rồi giải. Vì dạng toán này phải mất thêm thời gian cho việc lập đề toán nên thời gian dành cho việc phân tích và giải bài toán đối với học sinh nhận thức chậm còn thiếu, đặc biệt là những học sinh không chú ý nghe giảng. Trên cơ sở áp dụng các biện pháp nêu trên trong năm học 2017 – 2018, sau khi tổng kết, đánh giá lại từng biện pháp và xem xét tính hiệu quả của các biện pháp đó, chúng tôi nhận thấy các biện pháp đã áp dụng cần bổ sung thêm cho hoàn chỉnh, cũng có biện pháp không phù hợp cần thay thế. Để đảm bảo được hiệu quả của việc dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2a4 nói riêng và học sinh khối 2 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên nói chung trong năm học 2018 – 2019 chúng tôi đã cải tiến hai biện pháp cũ, bổ sung hai biện pháp mới cho phù hợp với điều kiện thực tế, đó là: 1. Dạy giải toán dựa vào “từ khóa” để xác định các dạng toán trước khi giải. 2. Dạy giải toán thông qua bước lập biểu thức trước khi giải. 3.2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến 3.2.1. Tính mới và sự khác biệt của biện pháp mới so với biện pháp cũ 3.2.1.1. Tính mới: Qua việc áp dụng hai biện pháp đã nêu trên chúng tôi nhận thấy: Đối với học sinh: Các em có kĩ năng xác định chính xác “từ khóa” của bài toán và xác định đúng dạng toán trước khi giải rồi mới thực hiện các bước giải thông thường. Đối với giáo viên: Việc dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp hai đã trở nên hứng thú, say mê và dễ dàng hơn, việc phân tích bài toán, hướng dẫn các bước giải có cơ sở không bị quá tường minh, không bị theo khuôn mẫu nên học sinh dù học yếu cũng hiểu bài toán một cách cặn kẽ và giải chính xác. 3.2.1.2. Sự khác biệt Khi đưa các biện pháp vào thực hiện chúng tôi nhận thấy rõ sự khác biệt giữa biện pháp cũ và biện pháp mới như sau: Biện pháp 1: Học sinh nắm chắc các dạng toán đã học, có thói quen xác định dạng toán trước khi giải và giải chính xác cả về lời giải và phép tính. Biện pháp 2: Học sinh biết lập các biểu thức trước khi giải để giải các bài toán dạng tìm thành phần chưa biết. Từ những sự khác biệt giữa các biện pháp cũ và mới như đã nêu trên, chúng tôi cụ thể hóa các biện pháp mới được mô tả dưới đây. 3.2.2. Các biện pháp mới áp dụng 3.2.2.1. Biện pháp 1: Dạy giải toán dựa vào “từ khóa” để xác định các dạng toán trước khi giải. Ở lớp một, học sinh được làm quen với các bài toán giải bằng phép cộng hoặc phép trừ. Nhưng khi lên lớp hai các em được làm quen với nhiều dạng toán hơn, đặc biệt là các em phải làm quen với việc giải toán bằng phép tính nhân, chia. Trong đó giải bằng phép tính cộng hoặc trừ cũng thêm một số dạng mới. a. Cách thực hiện: * Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài toán giải bằng phép cộng: Tôi chia các bài toán giải bằng phép cộng thành 2 kiểu: Kiểu 1: Tìm tổng. Trong đó có hai dạng bài: Thêm vào dữ kiện đã biết một số đơn vị rồi tính tổng hoặc gộp hai thành phần đã biết lại để tính tổng. Từ khóa trong dạng toán này có thể dựa vào dữ kiện đã biết hoặc câu hỏi của bài toán hoặc cả dữ kiện đã biết và câu hỏi của bài toán. Kiểu 2: Bài toán về nhiều hơn. Trong đó có bài toán đại trà và bài toán nâng cao. Để xác định được dạng toán trong bài toán nâng cao, tôi hướng dẫn các em đọc kĩ đề, xác định kĩ đối tượng cần so sánh, lập bài toán mới rồi sử dụng bài toán mới để xác định dạng toán rồi mới giải. Ví dụ bài đại trà: Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét? Ví dụ bài nâng cao: Mận cao 95cm, Mận thấp hơn Đào 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét? Với hai bài toán này, tôi hướng dẫn học sinh: Ngay sau ý thứ hai của bài toán là đối tượng khác (trong ví dụ này phải là Đào) thì đó là bài toán đại trà, còn ngay sau ý thứ hai của bài toán, vẫn là đối tượng của ý thứ nhất trong bài (trong ví dụ này lại vẫn là Mận) thì đó là bài toán về nhiều hơn dạng nâng cao. Cách lập bài toán mới: Mận cao 95cm, Mận thấp hơn Đào 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét? Giữ nguyên Đào cao hơn Mận Giữ nguyên Vậy cách xác định các từ khóa trong dạng toán tính tổng là: Bài toán Dựa vào dữ kiện đã biết để tìm từ khóa Dựa vào câu hỏi để tìm từ khóa Dạng toán Trong vườn có 9 cây táo, mẹ trồng thêm 6 cây táo nữa. Hỏi trong vườn có tất cả bao nhiêu cây táo? Từ khóa: Trồng thêm Từ khóa: có tất cả Tìm tổng Trong thư viện có 25 học sinh trai và 32 học sinh gái. Hỏi tất cả cóbao nhiêu học sinh trong thư viện? Từ khóa: tất cả có Tìm tổng Mận cao 95cm, Đào cao hơn Mận 3cm. Hỏi Đào cao bao nhiêu xăng-ti-mét? Từ khóa: Đào cao hơn Mận Bài toán về nhiều hơn Nam có 10 viên bi, Nam có ít hơn Bảo 5 viên bi. Hỏi Bảo có mấy viên bi? Từ khóa: Nam có ít hơn Bảo (vẫn là đối tượng thứ nhất) Bài toán về nhiều hơn dạng nâng cao Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số từ khóa cho dạng bài này như: Dữ kiện đã biết: thêm, trồng thêm, bay đến, được cho thêm, - Tìm tổng: Câu hỏi: tất cả, có tất cả, có bao nhiêu và - Bài toán về nhiều hơn: hơn, nặng hơn, cao hơn, dài hơn ... ở phần dữ kiện đã biết. * Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài toán giải bằng phép trừ: Tôi chia các bài toán giải bằng phép trừ thành 4 kiểu: Kiểu 1: Tìm hiệu: bớt ở dữ kiện đã biết đi một số đơn vị rồi tính hiệu Kiểu 2: Tách ra làm hai phần: cho biết tổng của hai đối tượng nào đó, biết số lượng của một đối tượng, tìm đối tượng còn lại. Dạng toán này có thể được coi là dạng toán tìm số hạng chưa biết, nhưng khi đó các em chưa được học cách tìm số hạng chưa biết, mà ngay đầu năm học các em đã được học dạng toán này rồi nên tôi đặt tên cho dạng toán là: Tách ra làm hai phần. Từ khóa trong dạng toán này có thể dựa vào cả dữ kiện đã biết và câu hỏi của bài toán. Kiểu 3: So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị: So sánh số lớn hơn số bé bao nhiêu đơn vị hoặc ngược lại, so sánh số bé kém số lớn bao nhiêu đơn vị. Kiểu 4: Bài toán về ít hơn. Trong đó có bài toán đại trà và bài toán nâng cao. Để xác định được dạng toán trong bài toán nâng cao, tôi hướng dẫn các em đọc kĩ đề, xác định kĩ đối tượng cần so sánh, lập bài toán mới rồi sử dụng bài toán mới để xác định dạng toán rồi mới giải (tương tự như bài toán về nhiều hơn dạng nâng cao). Ví dụ bài đại trà: Năm nay anh 16 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi? Ví dụ bài nâng cao: Năm nay anh 16 tuổi, như vậy anh hơn em 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi? Với hai bài toán này, tôi hướng dẫn học sinh: Ngay sau ý thứ hai của bài toán là đối tượng khác (trong ví dụ này phải là em) thì đó là bài toán đại trà, còn ngay sau ý thứ hai của bài toán, vẫn là đối tượng của ý thứ nhất trong bài (trong ví dụ này lại vẫn là Anh) thì đó là bài toán về ít hơn dạng nâng cao. Cách lập bài toán mới: Năm nay anh 16 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi? Giữ nguyên anh hơn em Giữ nguyên Vậy cách xác định các từ khóa trong dạng toán tính hiệu là: Bài toán Dựa vào dữ kiện đã biết để tìm từ khóa Dựa vào câu hỏi để tìm từ khóa Dạng toán Bình có 11 quả bóng bay, Bình cho bạn 4 quả. Hỏi Bình còn mấy quả bóng bay? Từ khóa: cho bạn Từ khóa: còn Tìm hiệu Lớp 2A có 30 bạn, trong đó có 12 bạn nữ. Hỏi lớp 2A có bao nhiêu bạn nam? Từ khóa: Trong đó Tách ra làm hai phần Lớp 2A có 12 bạn nữ và 18 bạn nam. Hỏi lớp 2A có só bạn nam nhiều hơn số bạn nữ bao nhiêu? Từ khóa: Nhiều hơn (ở phần câu hỏi) So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị Năm nay anh 16 tuổi, em ít hơn anh 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi? Từ khóa: Em ít hơn anh Bài toán về ít hơn Năm nay anh 16 tuổi, như vậy anh hơn em 5 tuổi. Hỏi năm nay em bao nhiêu tuổi? Từ khóa: anh hơn em (vẫn là đối tượng thứ nhất) Bài toán về ít hơn dạng nâng cao Trong quá trình giảng dạy, giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số từ khóa cho dạng bài này như: Dữ kiện đã biết: cho đi, biếu bớt đi, đã dùng, đã bị hỏng, đã bán, - Tìm hiệu: cho, biếu, tặng, . Câu hỏi: còn lại, còn, còn phải làm tiếp, - Tách ra làm hai phần: phần dữ kiện đã biết: trong đó, riêng - So sánh hai số hơn kém nhau một số đơn vị: Các từ dùng để so sánh (nhiều hơn, hơn, nặng hơn, cao hơn, dài hơn , ít hơn, kém, nhẹ hơn, ngắn hơn, bao nhiêu đơn vị ở phần câu hỏi - Bài toán về ít hơn: ít hơn, kém, nhẹ hơn, ngắn hơn, ở phần dữ kiện đã biết. * Hướng dẫn xác định “từ khóa” trong bài toán giải bằng phép nhân hoặc phép chia: a. Cách thực hiện: Chúng tôi chia các bài toán trong quá trình hình thành bảng nhân và bảng chia làm ba dạng toán cơ bản: Dạng toán 1. Biết một – tìm nhiều Dạng toán 2. Biết nhiều – tìm một Dạng toán 3. Chia thành các phần bằng nhau Nhưng vấn đề đặt ra là học sinh phải biết tóm tắt và tóm tắt thành thạo từng dạng toán ngay từ khi bắt đầu học phép tính nhân, chia. Học sinh nhìn vào tóm tắt để đọc và hiểu được bài toán, xác định được dạng toán. Sau khi đã tóm tắt xong, việc giải bài toán không còn phụ thuộc vào sách giáo khoa nữa. Vậy để tóm tắt thành thạo ba dạng toán cơ bản ở lớp, chúng tôi dùng “mẹo” để khi tóm tắt, phần câu hỏi không bị lộn làm cho học sinh khó quan sát, khó hiểu nội dung bài, giúp học sinh không chán nản với việc tóm tắt bài toán. b. Các bước thực hiện: * Dạng toán 1: Biết một – tìm nhiều - Bước tóm tắt: Tóm tắt theo trình tự các lời văn trong bài toán, sau khi tóm tắt xong, chúng tôi quy ước dòng trên của tóm tắt là dòng các dữ kiện đã biết và gọi là dòng biết, dòng dưới của tóm tắt là dòng bài toán hỏi, yêu cầu chúng ta phải tìm và gọi là dòng tìm. (Cách làm này cũng được vận dụng cho các dạng toán khác về phép chia). Ví dụ: Mỗi lọ hoa cắm được 3 bông hoa. Hỏi 6 lọ hoa như thế cắm được mấy bông hoa? Tóm tắt: 1 lọ: 3 bông (Biết 1 lọ có 3 bông hoa) 6 lọ: bông? (Tìm 6 lọ - nhiều lọ có bao nhiêu bông hoa) * Ghi chú: Chúng tôi quy ước với học sinh: các số từ 2 trở lên gọi là nhiều) - Bước phân tích và xác định dạng toán: Giáo viên Học sinh - Bài toán cho biết gì? - 1 lọ có 3 bông hoa. - Bài toán hỏi gì? - 6 lọ có mấy ong hoa? - Bài toán thuộc dạng toán nào? - Biết 1 – tìm nhiều - Bước giải: Ban đầu chúng tôi thao tác trên vật thật hoặc trên mô hình để học sinh nhận biết cách giải, các em có thể giải bằng phép cộng. Khi đó, chúng tôi hướng dẫn học sinh chuyển thành phép nhân dựa vào mối quan hệ giữa phép cộng và phép nhân bằng cách hỏi: Dựa vào tóm tắt em hiểu “mấy” được lấy “mấy” lần (3 được lấy 6 lần và thực hiện phép tính 3 6). Lúc này chúng tôi chốt lại dạng toán biết 1 – tìm nhiều giải bằng phép tính nhân. * Dạng toán 2: Biết nhiều – tìm một - Bước tóm tắt: Dạng toán này bao giờ cũng xuất hiện từ “đều, như nhau hoặc bằng nhau” có nghĩa các nhóm được chia với số lượng bằng nhau. Vậy tóm tắt theo trình tự sau: Ví dụ: Có 18 bông hoa chia đều vào 6 lọ. Hỏi mỗi lọ cắm được mấy bông hoa? Dựa vào câu hỏi, ta thấy đại lượng “lọ” viết trước dấu hai chấm, đại lượng “bông” viết sau dấu hai chấm nên ta cũng tóm tắt ở dòng biết tương tự như vậy. Với ví dụ này ta sẽ tóm tắt câu đầu của bài toán nhưng lộn lại để có lọ viết trước, bông viết sau: 6 lọ: 18 bông (Biết 6 lọ - nhiều lọ có 18 bông hoa) 1 lọ: bông? (tìm 1 lọ có bao nhiêu bông hoa) Chúng tôi đặc biệt lưu ý học sinh không được chuyển số lượng và đại lượng tương ứng sai so với đề bài. Ví dụ: 18 bông 18 lọ hoặc 6 lọ 6 bông Bước phân tích và xác định dạng toán: Giáo viên Học sinh - Bài toán cho biết gì? - 6 lọ có 18 bông hoa. - Bài toán hỏi gì? - 1 lọ có mấy ong hoa? - Bài toán thuộc dạng toán nào? - Biết nhiều – tìm một Bước giải: Chúng tôi thao tác trên vật thật hoặc trên mô hình để học sinh biết gắn bài toán với thực tế. Chia đều 18 bông hoa vào 6 lọ tức là chúng ta thực hiện động tác chia hoa vào 6 lọ. Vậy trong toán học ta cũng thực hiện phép tính chia. Và cuối cùng chúng tôi chốt lại dạng toán biết nhiều – tìm 1 giải bằng phép tính chia. * Dạng toán 3: Chia thành các phần bằng nhau Bước tóm tắt: Dạng toán này bao giờ cũng xuất hiện từ “các” hoặc “một số” có nghĩa chia thành các nhóm bằng nhau. Vậy tóm tắt theo trình tự sau: Ví dụ: Có 18 bông hoa cắm đều vào các lọ hoa, mỗi lọ có 3 bông hoa. Hỏi cắm được mấy lọ hoa? Hướng dẫn học sinh hiểu câu hỏi đầy đủ: có 18 bông hoa thì cắm đều vào được mấy lọ hoa. Dựa vào câu hỏi đầy đủ vừa khôi phục, ta thấy đại lượng “bông” viết trước, đại lượng “lọ” viết sau nên ta cũng tóm tắt ở dòng biết tương tự như vậy. Với ví dụ này ta sẽ tóm tắt dữ kiện thứ hai của bài toán trước nhưng phải đảo vị trí các đại lượng để có bông viết trước, lọ viết sau: 3 bông: 1 lọ 18 bông: lọ? Bước phân tích và xác định dạng toán: Với dạng toán này, chúng tôi hướng dẫn học sinh gắn bài toán với thực tế bằng cách thao tác trên vật thật hoặc trên mô hình, chỉ cho học sinh thấy ở tóm tắt không xuất hiện số 1 ở đầu dòng cả dòng “biết” và dòng “tìm” thì bài toán thuộc dạng: Chia thành các phần bằng nhau. Giáo viên Học sinh - Bài toán cho biết gì? - 3 bông cắm được 1 lọ. - Bài toán hỏi gì? - 18 bông cắm được mấy lọ? - Bài toán thuộc dạng toán nào? - Chia thành các phần bằng nhau. Bước giải: Chúng tôi hướng dẫn chia đều 18 bông hoa vào các lọ, mỗi lọ có 3 bông, tức là chúng ta thực hiện động tác chia hoa vào một số lọ sao cho mỗi lọ có 3 bông. Vậy trong toán học ta cũng thực hiện phép tính chia. Và cuối cùng chúng tôi chốt lại dạng toán chia thành các phần bằng nhau thì giải bằng phép tính chia. Chúng tôi rất quan tâm đến việc tóm tắt bài toán là vì học sinh tóm tắt được bài toán tức là học sinh đã hiểu bài toán và dễ dàng xác định được dạng toán để chọn được phép tính giải đúng. Mặt khác nó rất thuận lợi cho việc tìm hiểu và phân tích bài toán của giáo viên. Sau khi hình thành kĩ năng tóm tắt bài toán thành ba dạng như trên ta thấy các dữ kiện của bài toán được sắp xếp theo hai dòng: dòng trên là điều “bài toán cho biết gì?”, dòng dưới là điều “bài toán hỏi gì?”. Đây là các câu hỏi nhiều giáo viên rất hay dùng để phân tích bài toán. 3.2.2.2. Biện pháp 2: Dạy giải toán thông qua bước lập biểu thức trước khi giải. - Bước tóm tắt: - Bước phân tích và xác định dạng toán: - Bước giải 4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại 4.1. Hiệu quả kinh tế Qua thời gian áp dụng, nghiên cứu ở tại lớp 3A3 chúng tôi thấy: Theo phân phối chương trình, với mỗi dạng toán có 1 tiết lí thuyết và 2 đến 3 tiết luyện tập thì với 10 dạng toán đã được thống kê như trên, trong chương trình lớp 3 nếu chưa áp dụng sáng kiến thì với mỗi dạng toán các em sẽ phải học lí thuyết và luyện tập khoảng 3 tiết, sau đó lại chuyển sang dạng toán mới, tới khi ôn lại các dạng toán đã học các em lại quên và phải nhắc lại lý thuyết, lặp đi lặp lại như vậy các em không nắm được bản chất nên hay quên và mất rất nhiều thời gian. Sau khi áp dụng sáng kiến chúng tôi thấy các em nắm được chắc các dạng toán, thành thạo các bước giải nên vào các tiết luyện tập ở buổi sáng hay ôn luyện tổng hợp vào buổi chiều có các bài tập về các dạng bài toán đơn hay bài toán giải bằng hai phép tính thì học sinh có thể nắm chắc và thực hiện thành thạo các bước giải và giải tốt được các bài tập mà giáo viên giao. Học sinh nắm vững cách giải các dạng toán đơn ngay sau khi học xong mỗi dạng toán, vận dụng vào giải bài toán bằng hai phép tính một cách thành thạo, tiết kiệm khoảng 30% thời gian suy nghĩ và giải bài toán. 4.2. Hiệu quả kĩ thuật Giúp giáo viên nắm chắc phương pháp để áp dụng vào giảng dạy các dạng toán có lời văn nói chung, dạy các dạng toán có lời văn ở lớp 3 nói riêng. Học sinh không nhút nhát, lúng túng khi thực hiện giải toán, nắm được các dạng bài toán có lời văn, cách giải bài toán bằng hai phép tính, biết phân tích, tóm tắt bài toán, trình bày được bài giải khoa học, đúng. 100% các em đều giải được các bài toán giải bằng hai phép tính trong chương trình lớp 3 So sánh kết quả khảo sát như sau: Giải pháp TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm 3 - 4 Điểm 1 - 2 SL % SL % SL % SL % SL % Cũ 30 5 16,7 5 16,7 10 33,3 6 20 4 13,3 Mới 30 13 43,3 14 46,7 3 10 0 0 0 0 4. 3. Hiệu quả xã hội Góp phần trong việc huy động tỷ lệ chuyên cần của lớp. Học sinh được tăng cường Tiếng Việt khi học Toán, có hứng thú khi học bài, mạnh dạn, tự tin hơn. Phụ huynh học sinh yên tâm về việc học giải toán có lời văn của con em của mình. Học sinh đi học đều, nhiều em nắm chắc và yêu thích môn học, ham học hỏi, tích cực tìm tòi, khả năng vận dụng giải các bài tập dạng khác khá thành thạo. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến Sáng kiến không chỉ với học sinh lớp 3A3, mà đã được triển khai rộng rãi tới tất cả các khối lớp 2 và 3 trong năm học 2015 – 2016 và 2016 – 2017 của trường Tiểu học Thị trấn Than Uyên. Theo đánh giá chủ quan của chúng tôi, sáng kiến có thể áp dụng rất phù hợp với các trường có nhiều em học sinh dân tộc thiểu số để giúp các em nắm chắc các dạng toán và cách giải. 6. Các thông tin cần được bảo mật: Không 7. Kiến nghị, đề xuất a, Về danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến: 1, Đỗ Thị Hòa 2, Phùng Thanh Thủy b, Kiến nghị khác: Giáo viên cần không ngừng học hỏi đề nâng cao trình độ chuyên môn, trong dạy học sử dụng các tranh ảnh, vật mẫu, đồ dùng trực quan ... để tạo hứng thú giúp học sinh học tập tích cực. Tổ chức học tập theo nhóm, cá nhân ... phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Khảo sát chất lượng, phân loại đối tượng, xây dựng kế hoạch dạy học theo đúng từng đối tượng trong lớp. Tổ chức các hoạt động vui chơi toán học cho các em. Có sự động viên khuyến khích kịp thời với sự tiến bộ của các em. Điều chỉnh phương pháp và hình thức tổ chức dạy học trong từng tiết dạy, kịp thời giúp đỡ các em chưa làm được. Trên đây là một số kinh nghiệm của chúng tôi trong việc giúp học sinh lớp 3A3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên trình bày và giải được bài toán có lời văn bằng hai phép tính. Chúng tôi mong muốn sáng kiến của mình sẽ được ứng dụng rộng rãi vào các trường tiểu học trong những năm học tiếp theo. Chúng tôi rất mong được sự quan tâm và đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và Ban giám hiệu nhà trường để sáng kiến của tôi được nhân rộng ra các đơn vị trường bạn. 8. Tài liệu đính kèm: Không Trên đây là nội dung, hiệu quả của nhóm tác giả do chính chúng tôi thực hiện không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (Ký tên, đóng dấu) NHÓM TÁC GIẢ SÁNG KIẾN (Ký tên) Đỗ Thị Hòa Phùng Thanh Thủy Kính gửi: Hội đồng khoa học cấp cơ sở Đơn vị trường Tiểu học thị trấn Than Uyên xác nhận bà: Đỗ Thị Hòa, Phùng Thanh Thủy là nhóm tác giả của sáng kiến: “Một số biện pháp dạy giải toán bằng hai phép tính cho học sinh lớp 3a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên” đã áp dụng tại trường thời gian Từ tháng 9 năm 2015 đến tháng 8 năm 2016: nghiên cứu và vận dụng tại lớp 2a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên. Từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 5 năm 2017: thực hiện tại lớp 3a3 trường Tiểu học thị trấn Than Uyên. Qua thời gian áp dụng sáng kiến tại đơn vị, kết quả đem lại như sau: Giải pháp TSHS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm 3 - 4 Điểm 1 - 2 SL % SL % SL % SL % SL % Cũ 30 5 16,7 5 16,7 10 33,3 6 20 4 13,3 Mới 30 13 43,3 14 46,7 3 10 0 0 0 0 Vậy đề nghị Hội đồng khoa học cấp cơ sở xem xét, ghi nhận kết quả trên. Hiệu trưởng (Kí tên, đóng dấu) - Bài toán về tìm tổng (giải bằng phép cộng): trong bài toán có các dữ kiện: cho thêm, thêm, bay đến thêm, mua thêm và bài toán hỏi: cả hai, tất cả, có tất cả - Bài toán về tìm hiệu (giải bằng phép trừ): trong bài toán có các dữ kiện: bớt, cho đi, đem biếu, đem tặng, bay đi và bài toán hỏi: còn, còn lại, - Bài toán về tách ra làm hai phần (giải bằng phép trừ): Từ đặc biệt để xác định dạng toán là “trong đó”. Ví dụ: Mẹ mua 35kg gạo nếp và gạo tẻ. Trong đó có 12kg gạo tẻ. Hỏi mẹ mua bao nhiêu ki-lô-gam gạo nếp? - Bài toán về nhiều hơn (giải bằng phép cộng): trong bài toán có các dữ kiện: đại lượng thứ hai (hơn, nhiều hơn, nặng hơn, dài hơn) đại lượng thứ nhất, và bài toán hỏi về đại lượng thứ hai. - Bài toán về ít hơn (giải bằng phép trừ): trong bài toán có các dữ kiện: đại lượng thứ hai (kém, ít hơn, ngắn hơn, nhẹ hơn) đại lượng thứ nhất, và bài toán hỏi về đại lượng thứ hai.
File đính kèm:
- Sang kien Mot so bien phap day giai toan co loi van cho hoc sinh lop 2a4 truong Tieu hoc thi tran Th.doc