Đơn công nhận SKKN Ứng dụng trò chơi học tập nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt Lớp 3
Nhược điểm của giải pháp cũ :
– Những năm học vừa qua, theo chương trình đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt, việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức.
– Một số giáo viên sử dụng các trò chơi học tập chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa thực sự hiệu quả.
– Với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế.
– Vốn từ của các em còn ít, tìm từ chưa hay chưa phong phú, các em đang dừng lại ở tìm từ một tiếng, từ không đúng nghĩa, còn cách sử dụng từ của các em khi nói, viết, câu còn lúng túng khi đặt câu có từ cho sẵn, có khi đưa vào câu còn chưa hợp lý.
0 UBND THỊ XÃ QUẾ VÕ TRƯỜNG TIỂU HỌC NHÂN HÒA SÁNG KIẾN ĐỀ NGHỊ THẨM ĐỊNH, ĐÁNH GIÁ Ở CẤP THỊ XÃ TÊN SÁNG KIẾN: ỨNG DỤNG TRÒ CHƠI HỌC TẬP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 3 Tác giả Sáng kiến: Nguyễn Thu Hiền Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Tiểu học Nhân Hòa Bộ môn: Tiếng Việt Quế Võ, tháng 4 năm 2024 2 CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Ứng dụng trò chơi học tập nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt lớp 3 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : Ngày 15 tháng 9 năm 2022 3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): Không 4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm : Giáo viên chưa sử dụng nhiều trò chơi trong dạy học môn Tiếng Việt Nhược điểm của giải pháp cũ : – Những năm học vừa qua, theo chương trình đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt, việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức. – Một số giáo viên sử dụng các trò chơi học tập chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng thiết thực phục vụ mục tiêu của bài học nên việc tổ chức trò chơi chưa thực sự hiệu quả. – Với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế. – Vốn từ của các em còn ít, tìm từ chưa hay chưa phong phú, các em đang dừng lại ở tìm từ một tiếng, từ không đúng nghĩa, còn cách sử dụng từ của các em khi nói, viết, câu còn lúng túng khi đặt câu có từ cho sẵn, có khi đưa vào câu còn chưa hợp lý. 5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến: 4 Bảng theo dõi kết quả chất lượng môn Tiếng Việt của lớp 3G năm học 2022 – 2023 trước ( bảng 1 ) và sau khi áp dụng sáng kiến ( bảng 2 ) Bảng 1 : Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 3G 38 SL Tỉ lệ (%) SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ (%) (%) 15 39,5 22 57,9 1 2,6 Bảng 2 : Lớp Sĩ số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành 3G 38 SL Tỉ lệ (%) SL Tỉ lệ SL Tỉ lệ (%) (%) 28 73,7 10 26,3 0 0 7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến Phạm vi áp dụng : Học sinh lớp 3, trường Tiểu học Nhân Hòa Sáng kiến có tính khả thi và có thể triển khai áp dụng ở hầu hết các Trường Tiểu học nói chung và các lớp 3 nói riêng * Cam kết: Tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền. Xác nhận của cơ quan Tác giả sáng kiến (Chữ ký, dấu) (Chữ ký và họ tên) Nguyễn Thu Hiền MỤC LỤC 6 1. Mục đích của sáng kiến Xuất phát từ yêu cầu đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến phát triển giáo dục. Một trong những nhiệm vụ cơ bản của chương trình GDPT 2018 hiện nay là: hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh một cách toàn diện theo mục tiêu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học xác định là môn học công cụ bởi mục tiêu quan trọng của nó. Từ là đơn vị cơ bản của hệ thống ngôn ngữ, nếu không làm chủ được vốn từ của một ngôn ngữ thì không thể sử dụng được ngôn ngữ đó để học tập cũng như trong giao tiếp. Ngoài ra vốn từ ngữ của một người càng giàu bao nhiêu thì khả năng diễn đạt của người đó càng chính xác và tinh tế bấy nhiêu. Vì vậy, làm giàu vốn từ cho học sinh là việc làm quan trọng và cần thiết. Học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua một hệ thống bài tập theo bộ sách Kết nối tri thức. Tất cả được phân loại theo từng chủ đề quen thuộc trong cuộc sống và phát triển từ dễ đến khó giúp mọi học sinh đều dễ dàng tiếp cận. Tuy nhiên, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn nhiều hạn chế. Đa số các em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa của từ hoặc chỉ nắm nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ và chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và học tập còn nhiều hạn chế, học sinh còn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc tìm từ và sử dụng từ. Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ. Trò chơi học tập được ứng được yêu cầu đổi mới “ lấy học sinh làm trung tâm ” Ở bậc Tiểu học, sử dụng trò chơi trong quá trình học tập làm cho việc tiếp thu trí thức, rèn luyện kỹ năng, củng cố tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh động, hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên. Trong giờ mở 8 – Đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn lực lao động, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính Phủ, nghành Giáo dục – Đào tạo đang tiến hành bước đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục bắt đầu từ Tiểu học – Để đạt được mục tiêu cần phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh – Đổi mới phương pháp dạy học là đổi mới các hình thức tổ chức dạy học thích hợp nhằm tạo sự hứng thú cho người học, giúp cho học sinh tiếp thu bài nhẹ nhàng, vui vẻ hơn đạt được chất lượng cao trong quá trình dạy và học. – Tạo không khí học tập vui vẻ, sôi nổi có hiệu quả thông qua việc tổ chức cho học sinh tham gia các trò chơi là yêu cầu cần thiết trong hoạt động dạy học ở bậc Tiểu học hiện nay. Và hơn thế nữa trò chơi học tập có ưu thế trong quá trình dạy học vì hoạt động vui chơi ở Tiểu học góp phần quan trọng trong sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ em. 2.2. Ưu điểm nổi bật – Trò chơi học tập có thể sử dụng trong việc hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc để củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Đặc biệt là ở tiết luyện tập, học sinh cần được học tập với một tinh thần thoải mái, được ôn tập kiến thức nhưng cũng được vui chơi. Chính vì thế việc sử dụng trò chơi học tập sẽ giúp cho học sinh tạo sự hứng thú, tiếp thu kiến thực một cách hiệu quả. – Trò chơi học tập giúp phát triển tư duy, rèn các kĩ năng giao tiếp, ứng xử, thao tác, phản xạ nhanh. – Trò chơi học tập giáo dục tinh thần đoàn kết, hợp tác, chia sẻ; tính trung thực trong thi đua học tập. Tạo môi trường và không khí học tập vui tươi, thân thiện. 3. Đóng góp của sáng kiến để nâng cao chất lượng quản lý, dạy và học . 10 – Thích khám phá cái mới, dễ dàng bị hấp dẫn bởi các hoạt động mới lạ. ❖ Về phía phụ huynh: – Các em học sinh của lớp sống cùng cha mẹ và người thân nên được quan tâm, yêu thương, chăm sóc và tạo điều kiện tốt nhất để các em chuyên tâm học tập. – Thường xuyên liên hệ với giáo viên trong việc giáo dục trẻ. b. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế ❖ Về phía giáo viên: – Việc chuẩn bị đồ dùng phục vụ cho các trò chơi học tập và kết hợp các phương pháp cũng như hình thức tổ chức cho một tiết học để xoá bỏ lối mòn đơn thuần truyền thụ kiến thức, mang lại cho học sinh hứng thú học tập thật sự tốn nhiều thời gian và công sức để mang lại hiệu quả như mong đợi. – Giáo viên khi dạy chưa vận dụng hết các hình thức tổ chức trò chơi trong dạy học để gây hứng thú học tập cho học sinh. – Tài liệu tham khảo về trò chơi học tập có ít, điều này gây ảnh hưởng đến việc nghiên cứu bài dạy của giáo viên ❖ Về phía học sinh: – Học sinh nhút nhát sợ nói, ngại phát biểu trước người lạ, trước đám đông – Đôi khi chưa hợp tác cùng giáo viên, thụ động, uể oải, thờ ơ, ít tập trung chú ý vào bài giảng. – Vốn từ trong cuộc sống các em còn nghèo. Môi trường giao tiếp của học sinh còn hạn chế nên nhiều em chưa tự tin bạo dạn. ❖ Nguyên nhân: – Phần lớn phụ huynh là người ngoài ngành và phải lo việc mưu sinh nên khoán việc học tập của con em hoàn toàn cho giáo viên và chưa có chuyên môn để quan tâm, giúp đỡ các em kịp thời. 12 + Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi. + Chơi thật + Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người chơi. Giáo viên có thể nêu thêm những kiến thức được củng cố, khắc sâu, những sai lầm cần tránh. + Thưởng phạt : Phân minh, đúng luật chơi sao cho người chơi chấp nhận thoải mái và tự giác làm trò chơi thêm hấp dẫn, kích thích hứng thú học tập của học sinh. Phạt những học sinh phạm luật chơi bằng những hình thức vui nhộn như : hát một bài, đọc một bài thơ, nhảy lò cò, đọc bảng nhân, bảng chia, Biện pháp 2. Một số trò chơi học tập trong giờ mở rộng vốn từ. 2.1. Sử dụng phương pháp trò chơi trong học tập đối với các bài tập phân loại, quản lý vốn từ và bài tập sử dụng từ: © Trò chơi: Thi tiếp sức * Mục đích: – Giúp học sinh phân loại, quản lý vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh. – Rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh. * Chuẩn bị: – Bảng phụ hoặc kẻ bảng chính của lớp, trong bảng đó ghi đề bài và các tiêu chí phân loại từ. Từ ngữ chỉ sự vật Từ ngữ chỉ đặc điểm – Các giấy ghi sẵn các từ cần xếp loại. – Nam châm hoặc băng dính. * Cách tổ chức: – Trò chơi chia làm hai đội Nam – Nữ, mỗi đội 6 học sinh.
File đính kèm:
don_cong_nhan_skkn_ung_dung_tro_choi_hoc_tap_nang_cao_chat_l.docx