Đề tài Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5
I. LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước đang tiến lên trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi sự nghiệp giáo dục cũng cần có nhiều thay đổi để đào tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải quyết vấn đề thường gặp, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Vì vậy, phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển ở người học khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động và sáng tạo ngay từ khi đang học tập ở nhà trường, đặc biệt là rèn luyện cho các em khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, giúp các em có niềm vui, hứng thú trong học tập.
Trong tư thế chung đó, việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn tập đọc là rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn bởi vì phân môn tập đọc có vị trí đặc biệt trong chương trình tiểu học, nó đảm nhiệm quá trình hình thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh bậc học đầu tiên trong nhà trường phổ thông. Đầu tiên học sinh phải đọc, sau đó đọc để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh một số ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập: học, học nữa, học mãi – một khả năng không thể thiếu của con người thời đại mới.
Mục tiêu dạy học phân môn tập đọc ở lớp 5 không chỉ giúp học sinh củng cố, nâng cao và phát triển kĩ năng đọc mà còn bồi dưỡng ở các em tư tưởng, tình cảm, nhân cách, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp. Dạy tập đọc có ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm cả nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển.
Song, thực tế dạy học tập đọc nói chung và lớp 5 nói riêng hiện nay ở nhà trường chưa đạt hiệu quả cao, chưa kích thích sự ham học, tính tích cực, chủ động và sáng tạo của người học, đặc biệt là chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn các kĩ năng đọc cho học sinh, dẫn đến học sinh đọc chưa tốt.
g báo (làm rõ những thông tin cơ bản giúp người nghe tiếp nhận được vấn đề quan trọng, nổi bật trong văn bản) Phải khắc phục cách đọc thiên về hình thức hoặc diễn cảm “tùy tiện” của học sinh. Nên thay đổi các hình thức đọc các nhân, cặp, nhóm và phải có biện pháp Kiểm tra, quán xuyến các hình thức đọc đó để đạt được mục tiêu qua việc sử dụng chúng với mong muốn nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc. Để hình thành kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần: Hướng dẫn cho học sinh hiểu rằng “đọc diễn cảm” không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn cảm phải là cách sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của tác giả qua bài đọc. Học sinh phải hòa nhập được với bài văn, bài thơ... Khi có cảm xúc sẽ tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính văn bản quy định ngữ điệu cho cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra ngữ điệu cho văn bản. - Để luyện đọc diễn cảm tốt cần rèn cho học sinh những kĩ năng sau: + Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sâu ở chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi khi đọc. + Rèn cường độ giọng đọc - luyện đọc to vừa phải. + Luyện đọc chính âm thật chuẩn xác. + Tổ chức cho học sinh tìm hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận tìm ra cách đọc (giọng đọc như thế nào thì phù hợp? Nhấn giọng ở những từ ngữ nào? Nghỉ hơi như thế nào cho hợp lí? ...Nghĩa là thảo luận xem cần đọc như thế nào? Vì sao lại đọc như thế?) Có thể phân vai để làm sống lại nhân vật nội dung của tác phẩm. + Theo dõi giọng đọc mẫu của giáo viên, giọng đọc của bạn để phân tích tìm ra cách đọc đúng và hay. + Rèn đọc các nhân phải luôn có sự đánh giá của nhóm, lớp và của giáo viên. . Biện pháp luyện đọc thuộc lòng: Học thuộc lòng là quá trình học sinh đọc văn bản, ghi nhớ trong não từng câu, chữ rồi tái hiện lại dưới dạng hình thức âm thanh. Việc dạy học sinh học thuộc lòng văn bản để lưu giữ lại những trí thức và việc làm rất cần thiết . Những trí thức đã lưu giữ lại đặc biệt là những bài học thuộc lòng là bài văn thơ có giá trị sẽ giúp cho học sinh tích lũy văn chương, bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho các em. Đồng thời học thuộc lòng còn rèn luyện trí nhớ cho học sinh, dạy học sinh hi nhớ có phương pháp. Để rèn kĩ năng học thuộc lòng phải rèn cho học sinh kĩ năng đọc hiểu bài vì học thuộc lòng chỉ được thực hiện và ghi nhớ sâu trên cơ sở hiểu bài đã học. Vì vậy không nên bắt học sinh học thuộc lòng cái gì khác ngoài những cái đã hiểu. Rèn học thuộc lòng phải rèn cho học sinh sự ghi nhớ có ý thức, phải phối hợp ghi nhớ máy móc và ghi nhớ logic (ghi nhớ có ý nghĩ). Cần hướng dẫn học sinh ghi nhớ những từ ngữ quan trọng của câu đoạn, những từ “chìa khóa” để học thuộc lòng nhanh và nhớ lâu. Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả học thuộc lòng của học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau. Bản thân học sinh tự kiểm tra, kiểm tra trong nhóm nhỏ, trong nhóm lớn (bạn kiểm tra), kiểm tra trước lớp (bạn và giáo viên kiểm tra). 3. Biện pháp dạy đọc – hiểu Rèn kĩ năng đọc thầm rất quan trọng trong dạy đọc – hiểu. Nhưng trong một Số tài liệu dạy học cho rằng việc tổ chức dạy học thành tiếng gọi là “luyện đọc”. Nói như vậy, đọc đã bị thu hẹp nghĩa, chỉ còn ứng với hình thức đọc thành tiếng. Từ đây dẽ dẫn đến một sai lầm trong thực tế là giáo viên không chú ý đúng mức đến luyện đọc thầm cho học sinh. Sự thực thì đọc thầm có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn trongg quá trình tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản vì người ta không chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập chung để hiểu nội dung điều mình đọc. Vì vậy, ngay từ lớp 1 đã đọc thầm và lên lớp 5 thì kĩ năng này ngày càng được củng cố và nâng cao tốc độ đọc. Để dạy đọc - hiểu tốt cần thực hiện các việc sau: 3.1. Chuẩn bị cho việc đọc thầm Cũng như khi ngồi đọc thành tiếng, giáo viên phải rèn cho học sinh tư thế ngồi, đọc thầm phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách 30 – 35 cm. Vì khi ngồi đọc không đúng tư thế thì học sinh dễ mệt mỏi dẫn đến tình trạng chán học- một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu bài của học sinh mà giáo viên chưa quan tâm đến nhiều. 3.2. Rèn kĩ năng đọc thầm: Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong. Phải luyện cho học sinh đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả cao (nắm bắt đúng, đủ thông tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật) đó là mục đích, là yêu cầu cơ bản của hoạt động đọc nói chung. Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải nắm vững nội dung rèn kĩ năng đọc thầm không những ở khối lớp 5 mà còn ở khối lớp dưới để có hướng phát triển và nâng cao cho các em. Ở phần đọc thầm tìm hiểu theo yêu cầu cơ bản (trả lời câu hỏi), giáo viên cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh nhằm định hướng rõ việc đọc thầm và có biện pháp kích thích hoặc giúp đỡ các em thực hiện tốt. Khi nêu câu hỏi và yêu cầu đọc thầm, giáo viên nên nêu câu hỏi trước khi học sinh đọc để các em có định hướng đọc rõ ràng, đọc để làm gì và nhằm mục đính gì? Tránh yêu cầu học sinh đọc thầm trước sau đó giáo viên mới đưa ra lệnh (câu hỏi) sẽ tạo cho học sinh thói quen đọc thầm không có mục đích dẫn đến hiệu quả đọc thầm không cao. Ví dụ: Đọc đoạn văn hay khổ thơ nào? Đọc để biết và hiểu, nhớ hay suy nghĩ trao đổi về vấn đề gì ? để từng bước hình thành cho học sinh thói quen tập trung chú ý khi đọc thầm thu nhập thông tin và để cảm thụ văn bản nghệ thuật thì mới nâng cao được hiệu quả của việc đọc thầm. - Đọc thầm (đọc lướt) để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý: Giáo viên cần từng bước đề ra nhiệm vụ hoặc yêu cầu từ dễ đến khó dần để học sinh làm quen với cách đọc thầm ở từng khối, đặc biệt là cách đọc thầm nhanh, đọc lứt toàn câu, đoạn, cả bài. Ví dụ: Đọc thầm khổ thơ thứ tư trong bài “Đất nước” (TV 5 – Tập 2) để phát hiện biện pháp nghệ thuật mà tác giả đã sử dụng. Đọc lướt đoạn 1 trong bài “Hội thi nấu cơm ở Đồng Vân” (TV5- tập 2) Và cho biết hội thi bắt nguồn từ đâu ? Đọc thầm cả bài “Chuyện một khu vườn nhỏ” và cho biết tác giả muốn nói với chúng ta điều gì? + Cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. Học sinh đọc song thì báo cho giáo viên biết từ đó giáo viên nắm được và điều chỉnh tốc độ đọc thầm cho hợp lí. * Có hai hình thức kiểm tra đọc thầm: + Kiểm tra trực tiếp: Học sinh đang đọc thầm yêu cầu các em đọc to lên để xem các em đã đọc đến đâu và yêu cầu giơ tay khi đã đọc hết đoạn nào đó. + Kiểm tra qua đọc – hiểu: Vì mục đích của đọc thầm là hiểu bài nên việc kiểm tra kết quả hiểu bài đọc của học sinh là hình thức kiểm tra đọc thầm quan trọng hơn. Trước khi học sinh đọc thầm giáo viên nên đưa ra mục đích đọc thầm, sau khi học sinh đọc thầm, yêu cầu các em trả lời câu hỏi về nội dung hoặc nghệ thuật của bài để kiểm tra. 3.3. Hướng dẫn tìm hiểu bài: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài là giúp các em hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, hiểu nội dung, giá trị nghệ thuật của bài. Vì vậy, học sinh tìm hiểu bài nhằm mục đích trau dồi kĩ năng đọc – hiểu nắm bắt thông tin góp phần nâng cao năng lực cảm thụ tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài bắt đầu từ việc giải nghĩa từ: Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, ngay từ khi yêu cầu học sinh tiếp nhận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đoc), giáo viên cần giúp các em hiểu nghĩa một số từ ngữ có tác dụng góp phần năng cao kĩ năng đọc – hiểu( Lưu ý không những từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa cả những từ ngữ phổ thông Học sinh địa phương chưa quen biết hay là những từ ngữ đóng vai trò quan trọng để giúp học sinh hiểu nội dung bài (từ khóa) Ở phần giúp học sinh hiểu từ, giáo viên nên sử dụng nhiều cách giải nghĩa từ khác nhau để học sinh có hứng thú tìm hiểu nghĩa từ và để các em ghi nhớ lâu, giúp các em làm phong phú thêm vốn từ Tiếng Việt như: giải nghĩa từ trong văn cảnh, đặt câu; giải nghĩa bằng cách thay thế bằng từ đồng nhĩa, từ trái nghĩa; giải nhĩa bằng cách liên tưởng, tưởng tượng hay giải nghĩa bằng trực quan... Việc chọn từ nào để giải thích phụ thuộc nhiều vào đối tượng học sinh (ở địa phương nào, thuộc dân tộc nào...), phụ thuộc vào nội dung của từng bài. Giáo viên phải hiểu biết về từng địa phương cũng như có vốn từ của tiếng mẹ đẻ để chọn từ giải thích cho phù hợp đồng thời phải chuẩn bị để giải thích cho học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà các em yêu cầu. Để hiểu và nhớ những gì được đọc cần giúp cho học sinh “không xem tất cả các từ trong văn bản đều quan trọng như nhau mà cần sàng lọc để giữ lại những từ “chìa khóa” những nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ giúp ta hiểu nội dung của bài, những từ dùng “đắt” tạo nên giá trị nghệ thuật của bài. Ví dụ: Trong bài “Người công dân số Một”, nếu học sinh không hiểu từ “ngọn đèn” cả nghĩa đen và nghĩa bóng thì không thể hiểu tại sao anh Thành lại nói với anh Lê “Sẽ có một ngọn đèn khác anh à”,”ngọn đèn” ở đây là ánh sáng của đường lối mới. Giáo viên cần có biện pháp để giúp học sinh phát hiện ra những từ có tín hiệu nghệ thuật; đó là tìm những từ giầu màu sắc biểu cảm như các từ láy, từ nhiều nghĩa, những từ mang nghĩa bóng những từ có sự chuyển nghĩa của từ. Ví dụ: Cần có bài tập để giúp học sinh phát hiện ra nghĩa của từ “vàng” đã làm nên cái hay của câu thơ “Hạt vàng làng ta” (Hạt gạo làng ta- TV5 - Tập 2) Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những câu quan trọng của bài những câu nêu ý chung của bài. Hướng dẫn học sinh phát hiện ra những hình ảnh chi tết nghệ thuật tiêu biểu nhất. Cần tìm được những mối liên hệ bên trong của văn bản để thấy ý nghĩa hàm ẩn của nó chứ không phải chỉ có ý nghĩa biểu hiện. Tức là cần dạy cho học sinh biết đọc giữa các hàng chữ. Ví dụ: Vì sao chú Mo-ri – xơn lại dặn con nói với mẹ “Cha đi vui xin mẹ đừng buồn” vì chú muốn động viên vợ con bớt đau buồn trước sự ra đi của chú. Chú ra đi thanh thản tự nguyện vì lí tưởng cao đẹp. Có thể tùy từng bài, tùy từng lớp mà có biện pháp dạy đọc – hiểu khác nhau. Dựa vào hệ thống câu hỏi cuối bài giáo viên có thể xây dựng một số kiểu câu hỏi đọc – hiểu cho từng đối tượng học sinh lớp mình cho phù hợp. Hệ thống câu hỏi có thể là các dạng sau: + Câu hỏi yêu cầu phát hiện từ quan trọng, từ các em không hiểu nghĩa. + Câu hỏi yêu cầu phát hiện và giải nghĩa từ ngữ quan trọng, từ “chìa khóa” của bài. + Câu hỏi làm bộc lộ giá trị của từ dùng “đắt” trong bài (thường dùng cho học sinh khá, giỏi để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học) + Câu hỏi yêu cầu học sinh phát hiện chi tiết, những hình ảnh đẹp của bài + Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu nội dung của từng đoạn. + Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu và khái quát ý của từng đoạn, bài. Vận dụng linh hoạt phương pháp dạy học và thay đổi hình thức tổ chức dạy học khác nhau để tạo điều kiện cho học sinh học tập một cách tích cực mói nâng cao được chất lượng dạy học. Những câu hỏi đơn giản nên sử dụng phương pháp hỏi đáp hoặc đàm thoại; những câu hỏi khó hoặc câu hỏi mở nên sử dụng hình thức thảo luận nhóm, cặp; những câu hỏi có nhiều hướng trả lời nên sử dụng trò chơi theo kiểu bài tập trắc nghiệm... Tuy nhiên giáo viên không được sử dụng tùy tiện phương pháp và hình thức dạy học mà phải căn cứ vào bài cụ thể để lựa chọn. Ví dụ: Với câu hỏi “Tại sao tác giả lại gọi là hạt vàng làng ta?” , giáo viên có thể sử dụng hình thức thảo luận nhóm để thu được kết quả cao hơn, vì đây là câu hỏi đòi hỏi sự tư duy, suy luận logic của học sinh. Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn cho học sinh cách trả lời và diễn đạt ý mình muốn nói theo cách hiểu của bản thân một cách ngắn gọn, tránh tình trạng nêu câu trả lời theo nguyên văn câu, đoạn trong bài. Để thực hiện được điều này, giáo viên phải rèn cho học sinh kĩ năng phân tích và tổng hợp. Sau câu trả lời của học sinh, giáo viên phải kết luận và chốt ý thật ngắn gọn và súc tích. * Giáo viên cần đặc biệt khéo léo trong việc nhận xét khi có học sinh trả lời sai hoặc chưa đầy đủ, nên tìm cái đúng trong câu sai đó cho dù là nhỏ để khuyến khích động viên học sinh hoặc định hướng gợi mở để các em có câu trả lời đúng, từ đó giúp các em tự nhận ra cái sai của mình, qua đó giúp các em tự tin và trả lời tốt hơn ở các lần sau, tránh để các em mặc cảm, tự ti không dám phát biểu ý kiến trả lời câu hỏi ở các lần sau. *Những điểm cần lưu ý khi dạy đọc – hiểu một bài thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương. Giáo viên phải nắm được đặc trưng của ngôn ngữ văn chương để giúp học sinh tiếp nhận được vẽ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, hướng dẫn các em phát hiện được những tín hiệu nghệ thuật và giá trị của chúng trong việc biểu đạt nội dung (phù hợp với trình độ học sinh lớp 5), đó là : phát hiện lớp từ gợi tả , gợi cảm (thường là các từ láy, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa), những biện pháp tu từ, những câu, đoạn, những hình ảnh đẹp. Giáo viên cần giúp học sinh nắm được nội dung liên cá nhân, giá trị biểu hiện, chất trữ tình (thái độ, tình cảm, cách đánh giá sự việc của tác giả) Dạy đọc hiểu một bài văn thuộc phong cách văn chương không chỉ giúp học sinh thấy được bài văn ghi chép hiện thực gì mà phải giúp các em thấy bài đọc là kết quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ tình cảm thái độ của nhà văn trước hiện thực. Như vậy, để học sinh có kĩ năng đọc – hiểu tốt giáo viên cần rèn cho học sinh các kĩ năng: Tìm hiểu từ ngữ, cảm nhạn hình ảnh đẹp, khai thác hàm ý của lời văn, lời thơ, các chi tiết; biện pháp nghệ thuật của văn bản; nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả... Bên cạch đó, giáo viên cần tạo cho học sinh có hứng thú với việc khám phá vẻ đẹp muôn màu của các tác phẩm văn học nghệ thuật. PHẦN III: KẾT LUẬN I. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Sau khi tiến hành khảo sát chất lượng về thực trạng dạy học phân môn tập đọc (lần 1- tháng 9 năm 2011), tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng biện pháp trên vào dạy học từ tháng 11 năm học 2011 – 2012. Qua dự giờ các đồng nghiệp trong trường cũng thấy được ưu điểm của biện pháp mà tôi đã nêu trên, các đồng chí giáo viên dạy khối 5 đã áp dụng vào dạy học phân môn tập đọc và đều cho kết quả khả quan. Chính vì vậy mà chất lượng các giờ tập đọc được nâng lên rõ rệt. Năm học 2012 – 2013, tôi tiếp tục được phân công giảng dạy ở lớp 5 cụ thể là lớp 5B. Tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp trên vào dạy học và đã nâng cao được chất lượng dạy học phân môn tập đọc. Tôi tiến hành khảo sát chất lượng lần 2 (tháng 9 năm 2012), đối tượng học sinh là lớp 5B năm học 2012 – 2013. Học sinh lớp 5B tôi đang dạy có trình độ tương đương với trình độ học sinh lớp 5A (năm học 2011 – 2012 tôi phụ trách). Sau khi dạy bài “Bài ca trái đát” tôi cũng cho các em làm bài kiểm tra giống đề kiểm tra lần 1 (Đề khảo sát chất lượn lớp 5A- năm học 2011 – 2012) kết quả cụ thể: * Qua kiểm tra 25 em, tôi đã tổng hợp số em chưa đạt yêu cầu về mặt kiến thức, kĩ năng như sau: Kiến thức, kĩ năng cần đạt Số HS chưa đạt yêu cầu Tỉ lệ TL giảm so với lần 1 Đọc đúng 0 0% 100% Đọc lưu loát, trôi chảy 2 8% 71,4% Đọc diễn cảm 2 8% 80% Học thuộc lòng 0 0% 100% Đọc – hiểu (hiểu ND bài) 0 0% 100% * Kết quả kiểm tra chất lượng cụ thể sau: Loại giỏi Loại khá Loại trung bình Loại yếu Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 12 48% 10 40% 3 12% 0 0% Nhận xét: Học sinh hoàn toàn chủ động, tự giác học tập, phát huy được tính tích cực, hợp tác trong giờ học. Các em được rèn kĩ năng đọc thành tiếng phối kết hợp với kĩ năng đọc – hiểu theo các mức độ cần đạt nên nhiều em đọc tốt, số lượng em đọc hay (diễn cảm) được nâng lên, nhiều em có cách đọc hay khác nhau phù hợp với cảm nhận riêng của từng em. - Do phối hợp và lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau, thay đổi hình thức dạy học hợp lí, giờ học đã diễn ra tự nhiên nên đã tạo được hứng thú và sự thi đua trong học tập của học sinh. - So sánh với kết quả kiểm tra lần 1 (Lớp 5A năm học 2011- 2012), tôi thấy số lượng học sinh khá giỏi được nâng lên (HS giỏi được tăng 24%, học sinh khá tăng 16% ) không còn học sinh xếp loại yếu. Số học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm tăng nhiều. Tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp trên vào dạy học trong các giờ tập đọc ở lớp tôi và chất lượng ngày càng tăng. Điều này được thể hiện rõ qua các lần kiểm tra định kì. Đến lần kiểm tra định kì lần 4 (cuối kì 2) số học sinh xếp loại khá giỏi là 23 em chiếm 92% trong đó có 64% xếp loại giỏi, số học sinh xếp loại trung bình là 2 em chiểm 8%, không có học sinh xếp loại yếu. Việc nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc của lớp đã góp phần nâng cao chất lượng các môn học khá. * Như vậy để thực hiện tốt các giải pháp và biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc lớp 5 thì mỗi giáo viên cần. Đầu tư thời gian hợp lí để nghiên cứu tỉ mỉ, chu đáo sách giáo khoa, đọc tốt và hiểu sâu bài đọc, xây dựng kế hoạch dạy học cụ thể, thiết thực cho từng bài trước khi lên lớp. Cần phải tìm hiểu kiến thức có liên quan đến vấn đề mình sẽ dạy để hiểu bản chất của nội dung, kiến thức kĩ năng mà học sinh cần đạt để từ đó có hình thức và phương pháp dạy học hợp lý cho từng bài cụ thể. Cần lựa chọn vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đặc biệt là dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Trong giờ học nên tổ chức nhiều hình thức dạy học khác nhau tạo mối quan hệ thầy- trò. Tổ chức các hoạt động học tập tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Dưới sự hướng dẫn của thầy, học sinh phải chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức mới. Mỗi giờ học giáo viên cần chú ý quan tâm và khuyến khích mọi đối tượng học sinh, phát huy tính sáng tạo cho học sinh khá, giỏi , không gây áp lực cho học sinh yếu kém và tiếp thu chậm. Trong dạy học cần sử dụng câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu, có thể gợi mở để học sinh phát huy được năng lực vốn có của bản thân và vươn lên đạt đích cao hơn. Mỗi giáo viên cần thấy rõ: Dù đọc thành tiếng hay đọc – hiểu thì không thể tách rời việc đọc với việc hiểu những gì đọc được. Đây là hai nhiệm vụ quan trọng của môn tập đọc, nó luôn hỗ trợ và tác động qua lại với nhau, có đọc tốt mới hiểu đúng và có hiểu đúng mới đọc tốt. Tập đọc là phân môn của Tiếng Việt nên khi dạy tập đọc phải thường xuyên rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho học sinh theo nhiều cách khác nhau, giáo viên phải quan tâm đến việc huy động vốn tiếng Việt của các em để trình bày ý muốn nói một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ và rõ ràng. Đồng thời phải chú ý rèn cho học sinh kĩ năng phân tích, tổng hợp, tư duy logic. Thường xuyên cho học sinh luyện đọc thành tiếng và luyện đọc thầm; rèn kĩ năng tìm hiểu, phát hiện nội dung bài, đoạn, cái hay, cái đẹp trong các văn bản đọc. Bài đọc cần chú ý liên hệ đến bản thân và cuộc sống hiện tại để học sinh thông hiểu nội dung bài, từ đó đọc tốt. Thường xuyên kiểm tra đọc thành tiếng, đọc hiểu, kiểm soát tốc độ đọc thầm để củng cố kiến thức đã học, phát triển khả năng tự học, tự rèn luyện một cách có mục đích. Thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp, không ngừng học hỏi, tìm tòi nghiên cứu nân cao kiến thức để đáp ứng với sự nghiệp đổi mới, đi lên của sự nhiệp giáo dục. Giáo viên cần thường xuyên liên lạc trao đổi với phụ huynh học sinh nhằm mục đích để phụ huynh nắm được tình hình học tập, rèn luyện của các em. Đặc biệt là thống nhất phương pháp dạy học ở nhà của học sinh để các em dễ dàng ôn tập và vận dụng kiến thức đã học vào thực hành, luyện tập. Để hoàn thành sáng kiến này, bản thân đã có nhiều cố gắng, xong trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên chắc rằng còn nhiều thiếu sót. Vì thế, tôi rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của cấp trên hay các bạn đồng nghiệp để sáng kiến này của tôi được hoàn thiện hơn,. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Đông Sơn, ngày 6 tháng 4 năm Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nhiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người thực hiện Mai Thị An PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO BỈM SƠN TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐÔNG SƠN ********&********* SÁNG KIẾN KINH NHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 5 Họ và tên: Mai Thị An Chức vụ : Giáo viên Môn : Tiếng Việt Đơn vị : Trường Tiểu học Đông Sơn Thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa Năm học 2012- 2013
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan_mon_tap_doc_lop_5_3849.doc