Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT vào dạy học môn GDCD Lớp 9 ở trường THCS Sơn Thủy

 Năm học 2008-2009 là năm thứ 6 thực hiện chương trình thay sách giáo khoa mới và đổi mới phương pháp dạy học do Bộ GD-ĐT ban hành. Năm thực hiện nhiệm vụ của ngành giáo dục, tiếp tục đổi mới phương pháp dạy - học. Đặc biệt sẽ tập trung đổi mới phương pháp giảng dạy các môn xã hội - những môn mà chúng ta thấy bấy lâu nay xã hội chưa yên tâm, sẽ tổ chức những hội thảo từ cơ sở đến cấp quốc gia về đổi mới ở cả 03 khâu: Cách dạy, cách kiểm tra và gắn dạy học với thực tiễn. Năm học 2008 - 2009 sẽ đột phá tăng cường ứng dụng CNTT. Làm thế nào để ở tất cả các trường đều có giáo viên nồng cốt có thể sử dụng thiết bị, ứng dụng các bài giảng điện tử, hình thành kho dữ liệu các môn học. Trường nào cũng có giáo viên sử dụng được bài giảng điện tử. Phấn đấu đến cuối năm, tất cả các trường phổ thông đều kết nối Internet. Vì thế nhiệm vụ đặt ra cho mỗi giáo viên là phải đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học để nhằm phát huy tính tích cực, tự giác chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập nhằm chiếm lĩnh kiến thức một cách độc lập với từng môn học. Với đặc trưng môn học GDCD là một môn học xã hội mang tính chất khô khan, cứng nhắc, nên thực tế đã cho thấy rằng đại đa số học sinh có những khuynh hướng sai lầm là: Coi môn học GDCD là môn học đạo đức chính trị thuần tuý trong nhà trường, các em không hiểu những tri thức khoa học của bộ môn GDCD, trong đó nỗi bật tri thức khoa học về thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn là những nhân tố cơ bản mà mỗi con người cần phải tự trang bị cho bản thân để hoàn thiện nhân cách chính mình.

doc17 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2479 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT vào dạy học môn GDCD Lớp 9 ở trường THCS Sơn Thủy", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g CNTT vào dạy học. Hiện nay toàn trường đã có 23/ 31 giáo viên soạn bài bằng máy vi tính ( đạt tỷ lệ trên 70% )
	- Việc sử dụng bài giảng điện tử sẽ chuyển tải được lượng thông tin lớn đến với học sinh, việc trao đổi tin nhanh hơn và hiệu quả hơn.
	- Được sự ủng hộ tích cực của học sinh, đa số học sinh rất mong muốn được học những giờ học ứng dụng công nghệ thông tin.
	b. Những hạn chế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy và học môn GDCD :
	* Về phía giáo viên: 
	Hiện nay việc ứng dụng CNTT trong dạy và học môn GDCD vẫn còn hạn chế, đa số giáo viên giảng dạy môn GDCD trong các trường đều chưa có tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin. Những hạn chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, cả trong nhận thức lẫn hành động, cả trong khả năng và sự nhiệt tình của giáo viên:
	- Một số giáo viên vẫn còn quen với cách dạy cũ .
	- Nhiều giáo viên ngại sử dụng CNTT do tốn thời gian, công sức.
	- Nhiều giáo viên không muốn trang bị máy tính phục vụ dạy học khi đời sống gia đình còn nhiều khó khăn.
	- Một số giáo viên khác chưa thực sự cố gắng tự học, tự nâng cao khả năng ứng dụng CNTT, chưa dám nghĩ dám làm.
	- Hầu hết giáo viên chưa sử dụng thành thạo một số phần mềm vi tính. Do vậy nhiều giáo viên rất ngại làm chủ kĩ thuật phức tạp của máy tính.
	- Một số giáo viên đã cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học, tuy nhiên trong quá trình giảng dạy vẫn còn nặng về hình thức, còn mang nặng tính chất trình diễn. Nhiều giáo viên còn ôm đồm kiến thức làm mất thời gian mà hiệu quả giờ dạy chưa cao.
	- Trong tiến trình lên lớp với bài giảng điện tử, một số giáo viên thao tác hơi nhanh nên dẫn đến việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức và mức độ hiểu bài của học sinh chưa được cao.
	*Về phía học sinh:
	Trên thực tế, hầu hết học sinh đều say mê, thích thú được học những giờ có ứng dụng CNTT. Nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
	- Một số học sinh chưa thật thích nghi với phương pháp học hiện đại này, chỉ thụ động ngồi nghe, xem phim, ảnh và sôi nổi bình luận hoặc say sưa nghe thầy(cô) giáo giảng quên cả việc ghi bài.
	- Một số học sinh gặp khó khăn trong việc ghi chép: không biết lựa chọn thông tin, nội dung chính để ghi vào bài học, ghi chậm hoặc không đầy đủ. 
	Căn cứ vào những thực trạng trên bản thân tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn GDCD như sau:.
	2. Giải pháp.
 	Một là: Xây dựng thư viện tư liệu.
	Để phục vụ cho công tác giảng dạy, đối với môn GDCD kho tư liệu là điều kiện cần thiết và đặc biệt quan trọng vì đặc trưng của bộ môn GDCD là bộ môn trang bị cho học sinh hệ thống những tri thức đa dạng, phong phú: Triết học, đạo đức, chính trị, pháp luật. Những bài dạy về đạo đức, chính trị, pháp luật đòi hỏi có tính thực tiễn cao. Do vậy giáo viên dạy GDCD phải chú trọng cập nhật những sự kiện thông tin, số liệu mới phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả. 
	- Trước đây giáo viên xây dựng kho tư liệu bằng cách đọc, tham khảo tài liệu, sách báo và chép lại những thông tin cần thiết vào sổ tư liệu. Hiện nay việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên xây dựng thư viện tư liệu thuận lợi, phong phú, khoa học hơn và không mất nhiều thời gian như trước, việc khai thác tư liệu có thể lấy từ các nguồn:
 	+ Khai thác thông tin tranh ảnh từ mạng Internet.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Ngoại khoá về TTATGT”, chúng ta có thể lấy các thông tin hình ảnh như: biển báo về ATGT trong đó có tất cả các loại biển báo mà chúng ta cần tìm như “ biễn báo hiệu lệnh, biễn báo cấm, biễn báo nguy hiểm, biển báo chỉ dẫn và một số biển báo phụ khác...” mà trong quá trình giảng dạy chúng ta có thể khai thác hình ảnh các biển báo từ mạng Internet để cung cấp cho học sinh, hoặc hình ảnh về các vụ tai nạn do công dân khi tham gia giao thông thiếu ý thức thiếu hiểu biết, để học sinh quan sát bằng trực quan, gây hứng thú học tập cho học sinh, cũng như nâng cao ý thức chấp hành luật lệ ATGT cho học sinhh. Những tư liệu đó có ở trên mạng Internet. Chúng ta có thể vào địa chỉ www.Google.com.vn.
 	+ Khai thác tranh ảnh từ sách, báo, tài liệu, báo chí, tạp chíTrong quá trình tham khảo sách, báo, tài liệu... gặp những tranh ảnh đặc biệt cần thiết, có thể dùng máy scan quét ảnh và lưu vào USB, cuối cùng cập nhật vào kho tư liệu của mình để phục vụ cho quá trình giảng dạy.
	+ Khai thác từ băng hình, phim, video, các phần mềm tranh ảnh, bản đồ, hình vẽ... thông qua chức năng cung cấp thông tin của máy tính.
Ví dụ: Khai thác đoạn phim hoặc các nhân vật có liên quan đến bài giảng như hình ảnh một số anh hùng tuổi trẻ trong thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ như: Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng, La Văn Cầu, Nguyễn Viết Xuân... trong “Bài 10: Lí tưởng sống của thanh niên”, hoặc bài giảng ngoại khoá về “ Trật tự ATGT” cần thực hiện thao tác: mở các băng hình, các đĩa CD- Rom, lựa chọn các đoạn phim có thể làm tư liệu giảng dạy, sử dụng phần mềm như: HeroSuperPlayer 3000 hoặc Herosoft 2001 hay Camtasia studio, cắt các đoạn phim rồi lưu vào máy tính thành các file dữ liệu trong thư viện tư liệu để phục vụ giảng dạy.
	+ Khai thác các hình ảnh tĩnh, động, các phần mềm trên các đĩa CD- ROM, VCD... Chỉ cần kích chuột vào Insert/Picture/promfile... vào ổ đĩa CD-ROM lựa chọn tranh, ảnh, hình vẽ cần tìm rồi đưa vào bài giảng.
 	Với bộ môn GDCD tôi chỉ khai thác những nội dung cần thiết ở các đĩa VCD hoặc khai thác vận dụng các đĩa CD-ROM của các phân môn khác như CD-ROM vật lý, Địa lý.khi gặp những nội dung cần thiết, vì hiện nay vẫn chưa có phần mềm nào dành cho môn GDCD.
 	Từ các nguồn khai thác trên giáo viên sẽ lưu trữ cho mình một thư viện tư liệu phong phú, đa dạng để phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên cần lưu trữ thành trong file dữ liệu để dễ dàng tìm kiếm khi sử dụng. Hiện nay đối với bản thân tôi đã lưu trữ được một số file dữ liệu để phục vụ cho quá trình giảng dạy bộ môn GDCD như: các dữ liệu về hình ảnh Bác Hồ, hình ảnh một số anh hùng tuổi trẻ tiêu biễu trong thời kháng chiến, về môi trường, về vấn đề ATGT, về các tệ nạn xã hội, về các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, về các thắng cảnh của quê hương đất nước, và một số di tích lịch sử của địa phương và của đất nước
	Hai là: Xây dựng bài giảng điện tử:
 	Chúng ta có thể sử dụng giáo án điện tử để dạy các bài có tính chất thuyết trình, kiến thức trừu tượng, đặc biệt là những bài học mà có thể khai thác các tư liệu, hình ảnh, video, phần mềm
 	Bộ môn GDCD chưa có bài giảng điện tử sẵn có trên các đĩa CD-ROM bán trên thị trường. Do vậy giáo viên phải tự soạn bài giảng điện tử dựa vào các phần mềm ứng dụng sẵn có như PowerPoint, đây là phần mềm thiết kế bài giảng điện tử tương đối đơn giản, phù hợp với giáo viên giảng dạy các bộ môn không chuyên như môn GDCD. Chương trình này dễ sử dụng, bằng cách đọc sách hướng dẫn hoặc học hỏi bạn bè, đồng nghiệp thì có thể soạn được bài giảng. Trên thị trường hiện nay có bán phần mềm hướng dẫn học MicrosortPowerPoint, giáo viên có thể mua về để tự học.
 	* Quy trình thiết kế một bài giảng điện tử:
- Xác định rõ mục tiêu bài dạy.
- Xác định kiến thức cơ bản, nội dung trọng tâm.
- Lựa chọn tư liệu tranh, ảnh, phim, thông tin cần thiết phục vụ bài dạy.
	- Lựa chọn các phần mềm, trình diễn, hiệu ứng..để xây dựng tiến trình dạy học thông qua hoạt động cụ thể.
	- Chạy thử, sửa chữa và hoàn thiện bài giảng.
 	Trong quá trình dạy học giáo viên phải nghiên cứu kỹ nội dung của từng bài giảng. Phải đảm bảo đựợc tính kế thừa và phát triển kết quả và dạy học của bài trước với bài sau. Nội dung giáo dục phải đảm bảo tính chính xác, khoa học, phù hợp với thực tiễn. Để làm tốt điều này đòi hỏi giáo viên phải có sự sáng tạo để sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học phù hợp với nội dung, điều kiện dạy học và đặc điểm từng học sinh cụ thể của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung cơ bản của bài học với nội dung có liên quan để có thể chủ động trong quá trình hướng dẫn cho học sinh khai thác, lĩnh hội được điểm mấu chốt của bài.
	Cụ thể như:
	- Để dạy tốt một bài đạo đức thì cần phải đảm bảo những nội sau:
	+ Nội dung của chuẩn mực đạo đức trong bài là gì? biểu hiện như thế nào? cho học sinh xem những tấm gương đạo đức chính diện và phản diện.
	+ ý nghĩa tác dụng và phương hướng rèn luyện, cách ứng xử theo yêu cầu của chuẩn mực đạo đức.
	- Để dạy tốt một bài pháp luật thì cần bảo đảm những yêu cầu sau:
	+ Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong lĩnh vực mà bài học đề cập tới, cụ thể: Công dân được làm gì? không được làm gì?.
	+ Trách nhiệm của công dân và bản thân của học sinh trong việc thực hiện qui định của pháp luật. 
Ví dụ: Khi thiết kế bài giảng “Trách nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước”. Đây là bài học nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết về trách nhiệm của mình trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước.
 	Vì vậy chúng ta phải lựa chọn những tư liệu, tranh, ảnh về sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, cho học sinh xem một số hình ảnh về những thành tựu mà nền CNH - HĐH đất nước đã đem lại. Tìm những tấm gương thanh niên đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp CNH-HĐH, mặt khác đưa ra một số hình ảnh phản diện của một số thanh niên sống buông thả, sa vào các tệ nạn xã hội, thiếu trách nhiệm, thiếu ý thức đối với bản thân, gia đình và xã hội., như hình ảnh của một số thanh niên tiêm chích ma tuý, đua xe máy... từ những hình ảnh trực quan đó học sinh quan sát, nhận xét và có phản ứng trước những hành động trên giúp các em khắc sâu được kiến thức một cách nhanh chống.
 Lưu ý: Trong bài giảng điện tử đối với môn GDCD, giáo viên cần đưa những tư liệu, thông tin, tranh, ảnh hay đoạn phim có tính thực tiễn cao, nhưng những thông tin, số liệu đó phải mang tính thời sự, phải chuyển tải được nội dung bài giảng thì bài dạy mới có hiệu quả cao.
	Ba là : Đa dạng hoá các phương pháp dạy học:
 	Bên cạnh ứng dụng CNTT được coi là phương pháp hiện đại, tối ưu góp phần tích cực cho đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên cần chú ý đa dạng hoá các hình thức dạy học, phải biết kết hợp các phương pháp dạy học khác như: nêu vấn đề, phương pháp đàm thoại, thuyết trình, làm việc theo nhóm, hướng dẫn học sinh tự học, tự nghiên cứuTuỳ theo đặc điểm của từng bài, tuỳ theo đối tượng học sinh để sử dụng các phương pháp giảng dạy thích hợp mới có thể đạt được hiệu quả cao trong dạy và học.
	Bốn là: Hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho việc học tập bộ môn GDCD.
 	Phương pháp tự học, tự nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp làm việc theo nhóm... được xem là những phương pháp học mới so với phương pháp học thuộc lòng truyền thống trước đây. Những năm gần đây, việc ứng dụng CNTT rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực đã tác động rất lớn đến khả năng ứng dụng CNTT của học sinh. Nhiều em học sinh tiếp cận rất nhanh, sử dụng thành thạo nhiều phần mềm vi tính. Đặc điểm nổi bật ở các em học sinh hiện nay là tính năng động sáng tạo và yêu thích cái mới. Do vậy việc hướng dẫn học sinh ứng dụng CNTT phục vụ cho phương pháp học tập là điều nên làm và cũng là xu hướng chung trong giáo dục thời đại hiện nay.
	+ Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh địa chỉ một số trang web và yêu cầu các em tìm kiếm thông tin ở mạng Internet để phục vụ công việc học tập theo những chủ đề nhất định hoặc tìm nhanh ở địa chỉ: www.Google.com ở trên mạng Internet về các vấn đề các em muốn tìm hiểu nhanh.
	+ Giáo viên có thể ứng dụng phương pháp dạy học theo dự án của IntelTeach to the Future (Chương trình dạy học cho tương lai của Intel), phương pháp này đòi hỏi học sinh vừa làm việc theo nhóm vừa ứng dụng CNTT trong quá trình học tập để thiết kế ba bài tập: bài trình diễn PowerPoint, trang web và ấn phẩm ( tờ rơi ) để thực hiện ý tưởng dự án của mình. Tuy nhiên, để thực hiện phương pháp này đòi hỏi giáo viên phải được tập huấn các nội dung của chương trình dạy học cho tương lai của Intel và hướng dẫn cho học sinh ứng dụng CNTT để thực hiện các yêu cầu của chương trình phục vụ cho quá trình học tập
	3. Kết quả đạt được : 
	Qua thực tế giảng dạy cho thấy, mỗi khi giáo viên sử dụng, ứng dụng CNTT vào bài giảng thì học sinh cảm thấy thích thú học tập, các em có điều kiện học hỏi lẫn nhau, biễu lộ rõ trình độ hiểu biết của mình về vấn đề mà nội dung bài học đặt ra. Bởi thế, một khi giáo viên và học sinh xác định đúng nội dung công việc của mình thì tiết học sẽ diễn ra một cách thoải mái, thành công và có hiệu quả.
 	- Kết quả thu được thông qua các tiết dạy:
	+ Công việc của người giáo viên nhẹ nhàng hơn rất nhiều.
	+ Học sinh tự làm chủ kiến thức bài học một cách độc lập, mỗi cá nhân học sinh đều biết làm việc và hiểu bài ngay tại lớp.
	+ Qua mỗi tiết học, các em cảm thấy mình có ích và có trách nhiệm hơn với bản thân, với nhóm và với tập thể.
	+ 100% giờ dạy đảm bảo thời gian, ý thức học tập, xây dựng bài của mỗi học sinh được phát huy hết khả năng dẫn đến chất lượng giáo dục có hiệu quả cao hơn. Học sinh hứng thú với bài giảng có ứng dụng CNTT.
 	Từ khi áp dụng phương pháp dạy học ứng dụng CNTT trên bản thân tôi đã thu được những kết quả như sau:
	* Bảng điều tra về mức độ hứng thú học tập bộ môn GDCD học kì I năm học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy bộ môn GDCD lớp 9.
Lớp
Số học sinh
Hứng thú học bộ môn GDCD
Không hứng thú học bộ môn GDCD
SL
TL%
SL
TL%
9A
39
29
74,4
10
25,6
9B
40
31
77,5
9
22,5
9C
37
28
75,6
9
24,4
9D
38
31
81,5
7
18,5
Cộng
154
119
77.3
35
22.7
	*Kết quả chất lượng học kì I năm học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy bộ môn GDCD lớp 9
Lớp
Số học sinh
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
39
10
25,6
13
33,3
15
38,5
1
2,5
9B
40
7
17,5
17
42,5
14
35
2
5
9C
37
4
10,8
21
56,7
10
27
2
5,4
9D
38
5
13.2
15
39.5
16
42.1
2
5.3
*Kết quả chất lượng học kì II năm học 2008-2009 khi giáo viên ứng dụng CNTT vào trong giảng dạy bộ môn GDCD lớp 9
Lớp
Số học sinh
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
9A
39
12
30,8
15
38,5
12
30,8
0
o
9B
40
10
25,0
20
50,0
10
25,0
0
0
9C
37
8
21,6
20
54,1
8
21,6
2
5,4
9D
38
7
18,4
18
47,4
11
28,9
2
5.3
 Có được kết quả trên chính là nhờ sự nổ lực và quyết tâm cao của bản thân tích cực ứng dụng CNTT vào trong quá trình dạy học và sự tích lũy chuyên môn, học hỏi đồng nghiệp về vấn đề ứng dụng CNTT, được sự quan tâm của ban lãnh đạo nhà trường và đặc biệt là sự ủng hộ nhịêt tình của học sinh trong quá trình học tập.
	4. Bài học kinh nghiệm.
 	Qua quá trình giảng dạy ở trường, với các tiết dạy ứng dụng CNTT, áp dụng các biện pháp đã thực hiện như được trình bày ở trên tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm như sau:
	*Thứ nhất: Điều cần lưu ý trong quá trình giảng dạy là: Giáo viên là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không dơn giản chỉ là người phát động, cung cấp thông tin. Do vậy, giáo viên phải biết đánh giá lựa chọn thông tin, hình ảnh, đoạn phim phục vụ bài dạy.
	*Thứ hai: Soạn giáo án điện tử, giáo viên cần lưu ý khi dùng hiệu ứng, âm thanh, tiếng động, phải phù hợp không lạm dụng.
	*Thứ ba: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần lưu ý đến khả năng tiếp thu, lĩnh hội kiến thức, khả năng ghi chép bài học của học sinh để có hướng điều chỉnh kịp thời.
	*Thứ tư: Giáo án điện tử cần phải được thiết kế một cách khoa học, để qua từng slile chi tiết, học sinh phải nhận biết được nội dung nào là nội dung cần ghi chép, nội dung nào là phần diễn giải của giáo viên
	*Thứ năm: Trong giáo án điện tử việc dùng màu chữ, phong chữ, cỡ chữ và màu phong nền là điều cần lưu ý. Màu chữ, phong nền phải phù hợp, không lạm dụng các màu sắc, cỡ chữ không quá to, không quá nhỏ (Cỡ chữ 28-30 là vừa). Nếu dùng không đúng, không chuẩn, sẽ không đảm bảo được tính thẫm mỹ và khó có thể chuyển tải được nội dung bài học.
	*Thứ sáu: Một điều đáng lưu ý là cần hiểu đúng CNTT chỉ là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho đổi mới phương pháp dạy học, bởi vì quá trình giáo dục con người không thể “Công nghệ hoá” hoàn toàn được, có nhiều mặt giáo dục không thể quy trình hoá được như giáo dục nhân văn, giáo dục đạo đức, giáo dục thẫm mỹXác định điều này, trong quá trình giảng dạy giáo viên tránh lạm dụng CNTT, xem CNTT là độc tôn, là duy nhất.
 	*Thứ bảy: Để ứng dụng CNTT góp phần đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả cao, giáo viên phải thường xuyên không ngừng tự học tự nâng cao trình độ chuyên môn mà còn phải nâng cao khả năng sử dụng CNTT.
	*Thứ tám: Để nâng cao khả năng sử dụng CNTT, ngoài việc học thêm ở các lớp tin học, giáo viên có thể tự học (Ví dụ: Giáo viên có thể tự học cách soạn giáo án điện tử thông qua phần mềm hướng dẫn tự học Microsoft Powerpoint hoặc có thể tự học ở bạn bè, đồng nghiệp, những giáo viên có kinh nghiệm, có chuyên môn liên quan đến ứng dụng CNTT). Điều quan trọng là giáo viên phải đóng vai trò là người học thường xuyên để có thể thực hiện được cuộc cách mạng giáo dục nói chung, về phương pháp dạy và học nói riêng, đang được đặt ra hiện nay và xu thế là sử dụng CNTT như là một công cụ dạy học có hiệu quả cao.
IV. Kết luận chung
 Môn học GDCD ở trường THCS là một môn học có chức năng cực kỳ quan trọng, là môn học trực tiếp hình thành các phẩm chất và các kỹ năng theo các chuẩn mực đạo đức, pháp luật. Hình thành niềm tin có cơ sở khoa học về lý tưởng cao đẹp mà con người luôn luôn vươn tới sự tất thắng của Chân - Thiện - Mỹ. Bước đầu bồi dưỡng cho học sinh những phương pháp tư duy biện chứng, tích cực đấu tranh chống những cái sai, cái cũ, cái lỗi thời, cái tiêu cực và lạc hậu. Biết kế thừa những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong bước hình thành ở học sinh thói quen và kỹ năng vận dụng những tri thức đã học vào cuộc sống, học tập, lao động và sinh hoạt. giúp học sinh định hướng đúng đắn về các giá trị đạo đức, pháp luật, các tư tưởng chính trị trong hoạt động xã hội, trong cuộc sống hiện tại và sau này.
 Chúng ta đang sống trong những năm đầu của thế kỷ XXI - thế kỷ của khoa học và công nghệ. Sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho thời kỳ mới của đất nước là một trong những nhiệm vụ trọng đại của toàn xã hội và ngành giáo dục nói riêng. Muốn theo kịp các nước tiên tiến, đón đầu sự pháp triển đòi hỏi phải đổi mới giáo dục một cách đồng bộ: Chương trình, sách giáo khoa, kiểm tra đánh giá và đặc biệt cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại. 
 Sự ra đời của phương pháp mới bao giờ cũng gặp những khó khăn, đòi hỏi phải có ý thức và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những bước đi vững chắc mới có thể đạt được hiệu quả cao và CNTT là một thách thức đòi hỏi cả giáo viên lẫn học sinh cần phải biết học hỏi, khai thác, ứng dụng để biến nó trở thành công cụ đắc lực góp phần đổi mới phương pháp dạy – học có hiệu quả.
V. Những kiến nghị, đề xuất.
	1. Đối với phụ huynh:
	 - Cần quan tâm đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về cơ sở vật chất, nhất là các trang thiết bị tin học tạo điều kiện cho con em học tập tốt.
	 - Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội để giáo dục đạo đức cho con em của mình thông qua học tập bộ môn GDCD ở trường.
	2. Đối với nhà trường:
	 - Mua sắm thêm tài liệu tham khảo, đầu tư cơ sở vật chất và đồ dùng dạy học nhất là các tài liệu và các thiết bị tin học phục vụ cho việc ứng dụng CNTT trong thời đại mới.
	- Đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng CNTT vào dạy học của giáo viên và học tập của học sinh một cách đồng bộ và thường xuyên.
	- Tổ chức thảo luận các chuyên đề ứng dụng CNTT cho tất cả các giáo viên thường xuyên trong từng đợt, từng năm để ngày một nâng cao chất lượng dạy học, nắm bắt kịp thời với sự phát triển của CNTT trong thời đại mới.
 	3. Đối với địa phương:
 	- Quản lý chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh cũng như đạo đức của học sinh trong thời đại thông tin phát triển mà một số đối tượng học sinh không biết chọn lọc và tiếp thu những mặt tích cực mà CNTT đem lại cho các em.
 	- Đầu tư cơ sở vật chất trường lớp kịp thời trong việc dạy và học.
********************@&?*********************
ý kiến của HĐKH trường Sơn thuỷ, ngày 20 tháng 5 năm 2009
 Người viết
 Hồ Thị Phương Nga

File đính kèm:

  • docGDCD_Ung_dung_CNTT_vao_day_hoc_Ho_Thi_Phuong_Nga_THCS_Son_Thuy.doc
Sáng Kiến Liên Quan