SKKN Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 12 phần Địa lí tự nhiên 12 tại trường THPT Triệu Thái
Cơ sở lí luận
Hiện nay theo chương trình cải cách giáo dục đã được pháp chế hóa trong luật giáo dục. Điều 24.2 “Giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phải phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng kỹ năng tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, nhằm tác động tới tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh”
Yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học nên GV cần vận dụng các phương pháp soạn giảng cho phù hợp để đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS, từ đó có thể phát huy tính tự giác tích cực của HS.
Việc dạy học Địa lí nói chung cần đảm bảo các nguyên tắc giáo dục, đây là các luận điểm có tính chất chỉ đạo, những quy định, yêu cầu cơ bản mà người giáo viên cần phải tuân thủ để mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình dạy học. Việc sử dụng, áp dụng các bài hát, câu ca dao, tục ngữ phù hợp với từng nội dung kiến thức đã căn cứ vào các nguyên tắc giáo dục (môn Địa lí)
Mỗi một môn học đều có những đặc điểm riêng về nội dung và các nguồn tri thức cũng như về phương pháp dạy và học. Đối với môn Địa lí là môn học có nội dung kiến thức sâu rộng về tự nhiên và kinh tế xã hội với nhiều nội dung khó, khô khan, trừu tượng đặc biệt phần Địa lí tự nhiên. Vậy làm thế nào để có một tiết học Địa lí trở nên sinh động, gần gũi với thực tiễn, tạo hứng thú cho HS giúp các em tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng, hiệu quả? Tôi nghĩ đây là một câu hỏi, một nỗi trăn trở lớn không chỉ của riêng tôi mà còn của rất nhiều giáo viên dạy Địa Lí khác.
Theo tôi, câu trả lời ở đây chính là GV cần phải đổi mới phương pháp dạy học của mình. Trước hết, GV cần tích cực sử dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới hiện nay như hoạt động nhóm, động não, khăn trải bàn, các mảnh ghép, dạy học theo dự án Đồng thời cũng phải chú trọng đến một số phương pháp, kĩ năng mang tính đặc trưng của môn học như đọc atlat, vẽ và nhận xét các dạng biểu đồ, phân tích bảng số liệu thống kê .
Qua những năm trực tiếp tham gia giảng dạy Địa lí 12 tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng lồng ghép các bài hát, câu tục ngữ, ca dao để hình thành khái niệm, kiến thức địa lí đều đảm bảo các nguyên tắc trên. Nhất là các nguyên tắc đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức đối với học sinh và nguyên tắc đảm bảo tính tự lực, phát triển tư duy cho học sinh nhưng không kém phần thú vị, hấp dẫn thu hút học sinh với những kiến thức mới.
sản xuất nông nghiệp như câu ca dao: “ Có đói thì con ăn khoai Chớ thấy lúa trổ tháng hai mà mừng” Giải thích ý nghĩa: Do về mùa đông có hiện tượng rét muộn đến tận tháng ba (rét nàng Bân) gây thiệt hại cho lúa Chiêm trổ sớm. Hay câu ca dao: “ Mồng tám tháng tư không mưa Bỏ cả cày bừa mà lấp lúa đi” Hoặc GV sử dụng câu ca dao như: “ Mồng chín tháng chín có mưa Mẹ con đi sớm về trưa mặc lòng Mồng chín tháng chín không mưa Mẹ con bán cá cày bừa mà ăn” Giải thích ý nghĩa: Theo quy luật bình thường thì trong hai ngày mồng 8 tháng 4 và mòng 9 tháng 9 (âm lịch) mà thực chất là vào khoảng thời gian đó với 2 ngày trên làm mốc thường có mưa, điều này tạo điều kiện cho lúa chiêm và lúa mùa đang ra đòng sẽ trổ tốt và có thể hứa hẹn cho năng suất cao và ngược lại nếu thời tiết thất thường không có mưa thì ảnh hưởng xấu tới mùa màng. Chính từ sự nhận thức được tính thất thường của thời tiết, khí hậu nước ta và ảnh hưởng của nó đến sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp, bà con nông dân đã phải thốt lên những lời than chua xót và nỗi lo sâu sắc: “ Khó khăn làm mấy tháng trời Lại còn mưa nắng thất thời khổ trông” Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa còn ảnh hưởng đến đời sống của con người qua câu tục ngữ: “ Vợ hiền hoà nhà hướng Nam” Giải thích ý nghĩa: Câu tục ngữ trên nói về quy luật của chế độ gió mùa và hướng gió để từ đó xây dựng nhà cửa đúng hướng, có lợi cho sức khoẻ đối với nhân dân miền Bắc. Làm theo nhà hướng Nam vì mùa hè có gió mùa Tây Nam mang hơi nước từ biển vào làm dịu đi cái nóng của mùa hè. Còn về mùa đông khi gió mùa Đông Bắc lạnh thổi đến sẽ tránh được gió rét. Bài 11: Thiên nhiên phân hoá đa dạng Thiên nhiên nước ta có sự phân hoá đa dạng: theo Bắc – Nam, Đông – Tây, theo độ cao. Thiên nhiên phân hoá theo Bắc- Nam, lấy dãy núi Bạch Mã làm ranh giới để phân chia phần lãnh thổ phía Bắc và phía Nam. Phần lãnh thổ phía Bắc khí hậu mang tính chất nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh với cảnh quan tiêu biểu là đới rừng nhiệt đới gió mùa. Còn phần lãnh thổ phía Nam khí hậu mang tính chất cận xích đạo gió mùa với cảnh quan tiêu biểu là đới rừng cận xích đạo gió mùa. Để thấy rõ sự phân hoá khí hậu khác nhau giữa miền Bắc và miền Nam, ranh giới phân chia khí hậu giữa hai miền, có câu: “ Hải Vân đèo lớn vừa qua Mưa xuân ai đã đổi ra nắng hè” Hay sự khác biệt của khí hậu miền Trung và Nam Trung Bộ với miền Bắc còn có chế độ mưa và bão chậm dần về thu đông có câu ca dao: “ Thương anh biết lấy chi đưa Đôi dòng nước mắt như mưa tháng mười” Giải thích ý nghĩa: Nếu ngoài Bắc mưa lớn vào tháng VII, tháng VIII dương lịch và mùa bão mạnh nhất vào tháng IX dương lịch thì ở miền Trung và Nam Trung Bộ mùa bão chậm hơn khoảng tháng X, XI dương lịch. Vì nó liên quan đến dải hội tụ nhiệt đới trong thời gian này. Cũng vì thế, mưa lớn sẽ trùng vào tháng X, XI dương lịch. Đặc biệt là tháng XI dương lịch (tức tháng X âm lịch). Để khắc sâu thêm kiến thức, phần này GV có thể cho HS nghe bài hát “ Gửi nắng cho em” của nhạc sĩ Phạm Tuyên. Đây là một bài hát rất hay và nổi tiếng. Trong đó GV cho HS nghe 2 lần đoạn sau: “ Anh ở trong này chưa thấy mùa đông. Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ. Trời Sài Gòn xanh cao quyến rũ. Thật diệu kì là mùa đông phương Nam. Thương cái rét của thợ cày, thợ cấy nên cứ muôn chia nắng dều ra ngoài ấy. Có tình thương tha thiết trong này.Anh hiểu sức vươn của những cành đào. Qua giá rét vẫn đỏ hoa ngày tết. Như cây thông vững vàng trong giá rét.Em hãy làm cây thông xanh nghe em?...” Giải thích ý nghĩa: Nếu ta phân tích những lời hát đó dưới dưới góc độ môn Địa lí sẽ thấy tác giả phản ánh rất đúng, chính xác, thú vị và trữ tình về sự khác nhau của khí hậu hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc có một mùa đông lạnh do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Băc và nằm gần chí tuyến Bắc còn miền Nam nắng nóng quanh năm, không có mùa đông lạnh do nằm gần xích đạo và không chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Thiên nhiên nước ta cũng có sự phân hoá theo chiều Đông – Tây. Từ Đông sang Tây, từ biển vào đất liền thiên nhiên nước ta có sự phân hoá thành 3 dải rõ rệt: vùng biển và thềm lục địa, vùng đồng bằng ven biển và vùng đồi núi. Đặc biệt sự phân hoá thiên nhiên theo Đông – Tây ở vùng đồi núi rất phức tạp, chủ yếu do tác dộng của gió mùa và hướng các dãy núi. GV có thể cho HS tìm hiểu trước và thể hiện đoạn bài hát đã chuẩn bị. Hoặc GV cho HS nghe lời bài hát “ Sợi nhớ, sợi thương” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu trong đó có những lời hát: “ Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây bên nắng đốt, bên mưa bay. Em giang tay, em xoè tay chẳng thế nào mà che mưa anh .nghiêng sườn Đông mà che mưa anh, nghiêng sườn Tây em xoè bóng mát.” Hoặc bài hát “ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây” của nhạc sĩ Hoàng Hiệp với những lời ca: “ Trường Sơn Tây anh đi thương em thương em bên ấy mưa nhiều con đường mà gánh gạo. Muỗi bay rừng già cho dài mà tay áo.Hết rau rồi em có lấy măng không? Còn em thương bên Tây anh mùa đông. Nước khe cạn bướm bay lèn đá. Biết lòng anh say miền đất lạ. Là chắc em lo đường chắn bom thù. Anh lên xe trời đổ cơn mưa. Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ. Em xuống núi nắng về rực rỡ cái nhành cây gạt mối riêng tư” Giải thích ý nghĩa: Sở dĩ có sự đối lập về mùa mưa và mùa khô giữa hai sườn của dãy Trường Sơn là do khi sườn Đông Trường Sơn đón nhận các luồng gió từ biển thổi vào tạo nên một mùa mưa vào thu đông, thì ở các vùng Tây Nguyên lại là mùa khô, nhiều nơi khô gay gắt, xuất hiện cảnh quan rừng thưa. Còn khi Tây Nguyên là mùa mưa thì bên sườn Đông Trường Sơn nhiều nơi chịu tác động của gió Tây khô nóng (gió Phơn). Thiên nhiên nước ta có sự phân hoá theo độ cao, hình thành ba đai cao: nhiệt đới gió mùa, cận nhiệt đới gió mùa trên núi, ôn đới gió mùa trên núi. Đặc biệt đai cận nhiệt đới gió mùa và ôn đới gió mùa trên núi đem đến sự đa dạng, độc đáo trên cái nền chung là thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa. Khi dạy phần nội dung này, GV có thể lồng ghép một số đoạn trong bài hát “Sa Pa thành phố trong sương” của nhạc sĩ Vĩnh Cát: “ Anh chỉ nghe em hát vang lên trong biển mây. Anh chỉ nghe tiếng cười vang lên giữa rừng cây. Mặt người thương chẳng thấy. Ôi Sa Pa mù sươngÔi Sa Pa thành phố trong sương. Bốn mùa hoa trái, ngát hương. Mây mù, mưa bay,gió lạnh. Đây là quê hương những hạt giống quý” Giải thích ý nghĩa: Những đặc điểm khí hậu mát mẻ, giống như vùng ôn đới trên của Sa Pa chính là do khí hậu, cảnh quan có sự phân hoá theo độ cao địa hình khiên nơi đậy trở thành một địa điểm du lịch nghỉ mát nổi tiếng của nước ta. Bài 14: Sử dụng và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên Khi dạy đến phần kiến thức sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất. GV có thể sử dụng câu ca dao: “Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu” Hay câu tục ngữ: “Tấc đất, tấc vàng” Giải thích ý nghĩa: Tấc là đơn vị diện tích nhỏ nhất. Vàng là kim loại quý, dùng cân tiểu li để cân đong. Đất quý ngang vàng. Đất quý như vàng vì đất có vai trò quan trọng đối với con người. Câu tục ngữ này đề cao giá trị của đất, phê phán việc lãng phí đất. Bài 15: Bảo vệ môi trường và phòng chống thiên tai Khi dạy phần các thiên tai và biện pháp phòng chống.GV có thể sử dụng câu tục ngữ: “Chiêm khê, mùa thối” Giải thích ý nghĩa: Câu tục ngữ này phản ánh thiên tai ngập lụt và hạn hán. Những vùng đất không chủ động được tưới tiêu. Vụ chiêm (vào mùa khô) chỉ trông chờ vào nước trời, nên đất đai, cây trồng thường bị khô cháy.Vụ mùa(mùa mưa) hệ thống tưới tiêu kém nên đất đai và cây trồng bị ngâm thối trong nước lũ Hay câu tục ngữ: “ Ráng mỡ gà ai có nhà thì giữ” Giải thích ý nghĩa: Ráng mỡ gà là những đám mây màu hồng như mỡ gà, khi đám mây này xuất hiện trên đỉnh đầu thì có bão Câu tục ngữ: “Gió bấc heo may, chuồn chuồn bay thì bão” Giải thích ý nghĩa: Gió bấc tức là gió bắc. Ở miền Bắc nước ta vào mùa hè gió chuyển hướng hướng tây rồi bắc là dấu hiệu báo bão tới vì nước ta nằm ở đường đi của bão. Đồng thời với gió chuyển hướng tây, tây bắc nếu thấy chuồn chuồn bay ra nhiều do đó độ ẩm tăng lên đều là dấu hiệu có bão. Trong nội dung này, GV cũng có thể cho HS nghe ca khúc “ Tình yêu của Đất và nước” của nhạc sĩ Hoàng Vân. Trong đó có đoạn hát: “Đất ơi có nhớ những ngày đồng khô cỏ cháy. Nước ơi đồng trũng quê mình từ bao giờ ngập úng. Câu hỏi ngàn năm xưa ơ hơ. Hỏi trời trời chẳng thấu, hỏi đất đất không hay. Nay từ châu thổ sông Hồng tới đồng bằng Cửu Long ớ ơ. Trời của ta đất của ta tấc đất tấc vàng chỉ khi nào đủ nước. Không úng không hạn tưới tiêu mặc lòng.Nước của ta làm giàu đất của ta. Nước phù sa đẹp màu lúa đồng ta”. Giải thích ý nghĩa: Lời bài hát đã nói lên hậu quả của ngập lụt và hạn hán. Nhạc sĩ cũng nhấn mạnh khi đồng ruộng không bị ngập úng hay khô hạn thì lúa sẽ xanh tốt và mùa màng sẽ bội thu. 7.3.3. Cách sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao vào bài giảng Địa lí 12 phần Địa lí tự nhiên. Có nhiều cách được áp dụng khi đưa các bài hát, câu tục ngữ, ca dao vào quá trình dạy học. Tuỳ theo ý đồ giảng dạy và tổ chức HS của GV. Sau đây tôi xin đưa ra những cách tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy của mình như sau: a.Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao để giới thiệu bài Dạy học là một quá trình. Qúa trình đó bắt đầu từ khâu thiết kế, biên soạn và lên lớp. Trong đó, khâu biên soạn phần mở đầu sẽ có vai trò rất lớn. Yêu cầu với phần giới thiệu bài cần ngắn gọn, súc tích và khái quát cao và gợi mở được sự hứng thú cho HS. Chính vì vậy việc sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong giới thiệu bài có tác dụng rất lớn đối với định hướng nhận thức HS. Các bài hát, câu tục ngữ ca dao trên có thể dùng cho phần giới thiệu bài của GV. Đặc biệt là việc sử dụng các bài hát. Âm nhạc mở đầu sẽ thu hút sự chú ý và tăng thêm tính tò mò, tập trung và thích thú của HS ngay khi vào tiết học. Ví dụ: Khi dạy bài 2: Vị trí địa lí, phạm vi lãnh thổ Khi bắt đầu tiết học GV cho HS nghe bài hát “ Áo mới Cà Mau” của nhạc sĩ Thanh Sơn. Trong đó có đoạn: “Nghe nói Cà Mau xa lắm.Ở cuối cùng bản đồ Việt Nam. Ngại chi đường xa không tới, về để nói với nhau mấy lời. Xuôi mái chèo sông Ông Đốc, đêm trắng kịp tới chợ Cà Mau. Xuồng ghe ngày đêm không ngớt, người Cà Mau dễ thương vô cùng.” Sau đó GV dẫn dắt HS vào bài mới. b.Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao để khắc sâu kiến thức Ví dụ bài 8: Thiên nhiên chịu ảnh hưởng sâu sắc của biển Với nội dung hoạt động: Đánh giá ảnh hưởng của Biển Đông đến thiên nhiên Việt Nam. Phương pháp tôi sử dụng cho hoạt động này là đàm thoại, gợi mở, phát vấn, thảo luận nhóm. Cụ thể, với nội dung này, GV chia nhóm và giao nhiệm vụ cho các nhóm như sau: Nhóm 1: Đọc SGK mục 2, kết hợp hiểu biết của bản thân hãy: Nêu tác động của Biển Đông tới khí hậu nước ta.giải thích tại sao nước ta lại mưa nhiều hơn các nước khác cùng vĩ độ? Câu ca dao sau nói lên tác động gì của Biển Đông tới khí hậu nước ta: “ Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang Mây ngàn lên ngàn, thì mưa như trút” Nhóm 2: Dựa vào Atlat Địa lí trang 6,7 hãy: Kể tên các dạng địa hình ven biển nước ta? Xác định trên bản đồ tự nhiên Việt Nam các vịnh biển: Hạ Long (Quảng Ninh), Xuân Đài (Phú Yên), Vân Phong (Khánh Hoà), Cam Ranh (Khánh Hoà)? Kể tên các điểm du lịch, nghỉ mát nổi tiếng của vùng biển nước ta.Giải thích câu ca dao: “ Nước Sông Gianh vừa trong vừa mát Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi” Nhóm 3: Dựa vào hiểu biết của bản thân và quan sát bản đồ trả lời các câu hỏi: Đoạn thơ sau đây nói lên ảnh hưởng nào của Biển Đông tới nước ta: “ Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển Móng Cái – Cà Mau hình chiếc lưỡi cầu Câu những túi vàng đen mỏ dầu trong lòng đất” (Tổ quốc tôi ba nghìn cây số biển- Nguyễn Trọng Phú) Chứng minh Biển Đông giàu tài nguyên khoáng sản và hải sản? Tại sao vùng ven biển Nam Trung Bộ rất thuận lợi cho hoạt động làm muối? (Do có nhiệt độ cao, sóng gió, nhiều nắng, ít mưa, lại chỉ có một vài con sông ra biển). Nhóm 4: Dựa vào hiểu biết của bản thân và quan sát Atlat trả lời: Biển Đông ảnh hưởng như thế nào đối với cảnh quan thiên nhiên nước ta?Rừng ngập mặn ven biển ở nước ta phát triển mạnh nhất ở đâu? Tại sao rừng ngập mặn lại bị thu hẹp? Bước 2: Sau khi các nhóm tiến hành thảo luận, đại diện các nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung ý kiến. Bước 3: GV yêu cầu HS đọc các câu ca dao sau và cho biết câu ca dao đó nói về ảnh hưởng nào của Biển Đông tới nước ta: “ Những người đi biển làm nghề Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi Sóng lừng, bụng biển ầm ì Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi” HS trả lời, HS khác nhận xét, bổ sung. GV nhận xét phần trình bày của HS và kết luận các ý đúng của mỗi nhóm và đưa ra kết luận chung. c.Sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong kiểm tra, đánh giá HS Việc sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong kiểm tra, đánh giá sẽ góp phần tạo hứng thú, ham tìm hiểu kiến thức của HS.GV có thể yêu cầu HS dựa vào kiến thức đã học để vận dụng trong việc giải thích các bài hát,câu tục ngữ, ca dao. Có thể sử dụng trong việc hình thành bài tập về nhà, kiểm tra bài cũ và kiểm tra định kì Ví dụ1: Khi kiểm tra bài 9: Thiên nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa (tiết 1). GV có thể sử dụng các câu tục ngữ sau: “ Tháng giêng rét dài Tháng hai rét lộc Tháng ba rét nàng bân” Và yêu cầu HS giải thích và nói về đặc điểm của gió mùa mùa đông. Ví dụ 2: Khi kiểm tra bài 11: Thiên nhiên phân hoá đa dạng (tiết 1). GV có thể sử dụng câu ca dao sau: “Trường Sơn đông nắng, tây mưa Ai chưa đến đó như chưa hiểu mình” Câu ca dao trên đề cập đến hiện tượng địa lí nào? Bằng kiến thức đã học GV yêu cầu HS giải thích hiện tượng trên. - Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Kết quả khảo sát cho thấy, hình thức dạy học này đã khắc phục phần nào nhược điểm học tập thụ động ở học sinh, giúp học sinh hứng thú, chủ động, giáo viên cũng có thể phát huy tốt tính sáng tạo trong giảng dạy và đích cuối cùng không chỉ là kết quả học tập của học sinh mà còn góp phần hình thành nhân cách, năng lực của các em sau này. Với việc sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa Lí 12 phần Địa lí tự nhiên tôi đã dạy thử nghiệm tại trường THPT Triệu Thái và nhận thấy với cách dạy và học này không chỉ nên áp dụng với môn Địa Lí 12 mà còn có thể áp dụng trong nhiều phần nội dung khác của chương trình Địa lí ở các cấp học, lớp học khác nhau ( ví dụ như Địa lí 10 khi dạy về phần các hệ quả chuyển động xung quanh Mặt Trời của Trái Đất). Phương pháp này khá đơn giản, dễ áp dụng, phù hợp với nhiều đối tượng HS, cũng không đòi hỏi phức tạp về phương tiện, đồ dùng dạy học mà hiệu quả lại cao. Vì vậy, tôi thiết nghĩ các GV cùng môn có thể tham khảo cách dạy này để làm cho phương pháp dạy học của mình thêm phong phú, đa dạng, linh hoạt và hiệu quả hơn. Tuy nhiên vì thời lượng tiết học có hạn và ở một số bài, một số mục trong SGK không thể lúc nào cũng sử dụng cách dạy này nên trong quá trình soạn giảng GV cần bổ sung, kết hợp nhiều hình thức giảng dạy cùng với các phương tiện trực quan khác một cách chọn lọc, sáng tạo và tùy từng đối tượng HS để áp dụng linh hoạt, góp phần nâng cao kết quả học tập của người học 8. Những thông tin cần được bảo mật : Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 9.1 Đối với Giáo viên Việc sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa lí 12 yêu cầu GV phải nắm vững các nguyên tắc sư phạm, nắm vững lý luận dạy học, đảm bảo tính vừa sức cho HS. Không sa đà, làm mất đi tính đặc thù của bộ môn. Để tạo hứng thú cho HS khi học Địa Lí trước hết người GV cần phải yêu thích chính công việc giảng dạy ở trường bởi vì khi GV yêu công việc sẽ dồn vào đó quyết tâm, sự tâm huyết, say mê, nhiệt tình, từ đó nảy sinh nhiều ý tưởng sáng tạo. Để sử dụng phương pháp này hiệu quả bản thân GV phải có vốn kiến thức về ca dao tục ngữ phong phú, để vận dụng linh hoạt vào bài giảng cần hiểu thấu đáo, đầy đủ về ý nghĩa của câu ca dao, tục ngữ. Muốn làm được điều đó, GV phải thường xuyên tìm những thông tin bên ngoài thực tế nhờ việc tra cứu từ nhiều nguồn: báo chí, mạng internet, tham khảo các sách, tạp chí sưu tầm, bổ sung các câu ca dao, tục ngữ hay và có ý nghĩa với môn Địa lí. Tạo thành một bộ sưu tập về ca dao, tục ngữ phục vụ cho dạy học Địa lí và sử dụng như là một cuốn tài liệu của bộ môn. Muốn dạy tốt, dạy hay GV phải thực sự tâm huyết, đầu tư trong việc chuẩn bị soạn bài chu đáo. Xác định rõ trọng tâm bài học, các đơn vị kiến thức cơ bản của bài học để lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp. Sau đó phải sưu tầm, áp dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao có nội dung phù hợp, gần gũi với nội dung, kiến thức của bài học. Trong quá trình giảng dạy, GV cũng chú ý lồng ghép một lượng các bài hát, tục ngữ, ca dao vừa phải với nôi dung bài và thời gian của tiết học. Tránh lạm dụng quá mức sẽ khiến cho HS nhàm chán và làm “ loãng” nội dung trọng tâm của bài học. Khi áp dụng phương pháp này GV cũng cần chú ý sao cho phù hợp với các đối tượng HS. Thái độ của thầy cô ân cần, cởi mở, tạo không khí học tập thân thiện, vui vẻ. Khi thực hiện phương pháp này, GV phải chuẩn bị tốt giáo án điện tử, phòng học bộ môn hoặc các thiết bị hỗ trợ khác để giờ học đạt hiệu quả cao nhất. Muốn có được phương pháp dạy học tích cực, linh hoạt thì bản thân mỗi GV phải có kiến thức chuyên môn sâu sắc, chắc chắn về bộ môn giảng dạy của mình. Đồng thời phải không ngừng trau dồi, học hỏi kiến thức của các môn học khác vì Địa lí là môn học có kiến thức rộng và khá toàn diện. 9.2. Đối với HS: HS cần học bài và tích cực, sôi nổi trả lời bài bằng việc sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao đã được GV cung cấp., Để giảm việc GV cung cấp kiến thức một chiều thì có thể gợi ý cho HS, yêu cầu các em chuẩn bị bài mới bằng việc tìm hiểu các bài hát, tục ngữ, ca dao nào có liên quan đến bài mới và thử giải thích. 10. Đánh giá lợi ích thu được tham gia áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: * Kết quả kiểm tra theo nhóm điểm và tỉ lệ % trước khi sử dụng phương pháp dạy học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao Lớp Số HS Kết quả Giỏi Khá T.bình Yếu SL % SL % SL % SL % 12A1 39 5 12,8 6 15,4 19 48,7 9 23,1 12A2 43 2 4,7 20 46,5 19 44,2 2 4,6 12A3 37 9 24,3 8 21,6 20 54,1 0 0 * Kết quả kiểm tra theo nhóm điểm và tỉ lệ % sau khi sử dụng phương pháp dạy học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao Lớp Số HS Kết quả thực nghiệm Giỏi Khá T.bình Yếu SL % SL % SL % SL % 12A1 39 15 38,5 20 51,3 4 10,2 0 0 12A2 43 10 23,3 22 51,1 11 25,6 0 0 12A3 37 25 67,6 12 32,4 0 0 0 0 Như vậy, khi học theo cách sử dụng phương pháp dạy học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao số học sinh khá giỏi tăng lên ở các lớp chiếm tới 87,4%, số HS trung bình còn lại rất ít, đặc biệt không còn HS yếu. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Theo cách nhận xét, đánh giá của các thầy cô cùng bộ môn trong và ngoài trường . Với cách sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong dạy học Địa Lí 12 phần Địa lí tự nhiên, HS có hứng thú và chú ý học bài hơn, kết quả học tập cao hơn. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử : Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Lớp 12A1 Trường THPT Triệu Thái Tham gia các bài học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong việc học môn Địa Lí 12 phần Địa lí tự nhiên 2 Lớp 12A2 Trường THPT Triệu Thái Tham gia các bài học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong việc học môn Địa Lí 12 phần Địa lí tự nhiên 3 Lớp 12A3 Trường THPT Triệu Thái Tham gia các bài học sử dụng các bài hát, tục ngữ, ca dao trong việc học môn Địa Lí 12 phần Địa lí tự nhiên Lập Thạch, ngày 20 tháng 01năm2019. Thủ trưởng đơn vị (Ký tên, đóng dấu) Lập Thạch, ngày 20 tháng01năm2019. Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên) Hoàng Thị Qúy TÀI LIỆU THAM KHẢO ------------------------ Sách Sử dụng ca dao, tục ngữ trong dạy học Địa lí – Lam Dũng 2. Sách Địa lí trong ca dao dân ca Việt Nam – Lê Thị Ánh 3. Sách Giáo khoa Địa lí 12 (Ban cơ bản) – NXB Giáo dục năm 2006 4. Một số tư liệu khác trên mạng
File đính kèm:
- skkn_su_dung_cac_bai_hat_tuc_ngu_ca_dao_trong_day_hoc_dia_li.docx