SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi

a, Ưu điểm:

 - Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định.

 - Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Giám Hiệu nhà trường.

 - Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của các bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức.

 - Giáo viên trong lớp có tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp với nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ.

 - Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức về việc học tập của con em mình, sẵn sàng phối hợp với giáo viên trong giáo dục trẻ.

 - Bản thân tôi luôn tự học, rèn luyện, làm đồ chơi phục vụ cho các hoạt động.

b, Hạn chế và nguyên nhân hạn chế:

 - Trẻ nhà trẻ là độ tuổi còn non nớt, có nhiều trẻ chưa biết nói, một số cháu phát âm chưa chuẩn, nhận thức chưa được nhiều.

 - Các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có đặc điểm, tính cách khác nhau.

- Giáo viên luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục trẻ trong các hoạt động nhưng do trang thiết bị dạy học còn hạn chế nên giờ học âm nhạc còn chưa thật sinh động.

 - Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động ít giao lưu trong giờ học.

- Đa số phụ huynh là những người nông dân thuần túy hoặc làm nghề buôn bán tự do nên kiến thức và kỹ năng rèn luyện phát triển vốn từ cho trẻ còn hạn chế.

- Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ còn nhiều thiếu thốn.

 

doc22 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 13/01/2025 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24–36 tháng tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 MỤC LỤC
Nội dung Trang
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Mục đích, tính mới của sáng kiến
2. Ưu điểm nổi bật của sáng kiến
3. Đóng góp của sáng kiến
PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1: Thực trạng của việc giáo dục phát triển vốn từ cho trẻ 
24 – 36 tháng
Chương 2: Những giải pháp mang tính khả thi
1.Biện pháp 1: Cô giáo và người lớn phải là tấm gương sáng trong việc 
sử dụng ngôn ngữ.
2. Biện pháp 2: Giáo viên phải nắm vững đặc điểm phát triển vốn từ 
của trẻ nhà trẻ 
3. Biện pháp 3: Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các giờ hoạt động
4. Biện pháp 4: Xây dựng môi trường vật chất kích thích trẻ hoạt động 
tích cực
5. Biện pháp 5: Làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho các hoạt 
động của trẻ
6. Biện pháp 6: Phối hợp với phụ huynh trong phát triển vốn từ cho trẻ
Chương 3: Kiểm chứng các giải pháp của sáng kiến
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến
2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến
3. Kiến nghị với các cấp quản lý
PHẦN IV: PHỤ LỤC
 PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 1. Thực trạng của việc tổ chức hoạt động phát triển vốn từ cho trẻ 24 
– 36 tháng tuổi
 Trường Mầm non Đại Lai được thành lập từ năm 1992. Trải qua các giai 
đoạn xây dựng và trưởng thành từ trường mầm non dân lập, đến ngày 30 tháng 3 
năm 2011 được UBND huyện Gia Bình ra Quyết định chuyển đổi thành trường 
mầm non công lập xã Đại Lai. Từ khi thành lập đến nay trường mầm non Đại Lai 
luôn giữ vững là đơn vị trường tiên tiến, thành tích năm sau luôn cao hơn năm 
trước. 
 Trường có 01 điểm trường; điểmTrung tâm nằm trên địa bàn xã Đại Lai 
có18 nhóm, lớp và 460 học sinh, được chia thành 18 nhóm lớp, nhà trẻ 6 nhóm, 
mẫu giáo 12 lớp. CSVC tương đối khang trang, đáp ứng được yêu cầu cơ bản của 
đổi mới giáo dục hiện nay. 
 - Về đội ngũ quản lý: 
 BGH: 3 đồng chí (1 hiệu trưởng , 2 phó hiệu trưởng)
 - Về đội ngũ giáo viên:
 Tổng số năm học 2021-2022 có : 44 giáo viên/ 18 nhóm lớp 
 - Trình độ chuyên môn giáo viên: 
 Trình độ chuyên môn
 Năm học Đại học Cao đẳng Trung cấp
 2021-2022 43 1 0
 a, Ưu điểm:
 - Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định.
 - Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Giám Hiệu nhà trường.
 - Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của các bộ môn, được bồi dưỡng 
thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức.
 - Giáo viên trong lớp có tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp với nhau trong 
công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. 
 - Đa số phụ huynh nhiệt tình có nhận thức về việc học tập của con em 
mình, sẵn sàng phối hợp với giáo viên trong giáo dục trẻ.
 3 mà đưa tay lên chỉ vào những gì trẻ muốn nói với cô. Chính vì vậy cần phải có 
biện pháp khắc phục để phát triển vốn từ và giúp trẻ sử dụng vốn từ cho tốt.
 2. Biện pháp nâng cao chất lượng tổ chức hoạt động phát triển vốn từ 
cho trẻ
 Việc phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng tuổi một cách hiệu 
quả là một thử thách rất lớn không chỉ với riêng tôi mà tất cả giáo viên mầm non 
chúng ta, nó đòi hỏi người giáo viên phải thực sự tâm huyết, khéo léo, vận dụng 
linh hoạt bản thân tôi đã đúc rút kinh nghiệm cần phải thực hiện tốt một số 
biện pháp sau:
 a, Biện pháp 1: Cô giáo và người lớn phải là tấm gương sáng trong việc sử 
dụng ngôn ngữ.
 Trẻ em học mọi điều từ cuộc sống dưới hình thức “bắt chước”. Hơn nữa 
thời gian mà trẻ tiếp thu kiến thức về mọi mặt từ cuộc sống ở trường nhiều hơn 
ở nhà. Nếu ở nhà, ông bà, cha mẹ là những người gần gũi, yêu thương trẻ nhất 
thì ở trường cô giáo cũng vậy. Trẻ thường xuyên tiếp xúc và học hỏi ở cha mẹ, 
cô giáo từ những điều nhỏ nhặt nhất đến những cái lớn lao. Chính vì vậy cô giáo 
và người lớn cần phải là tấm gương sáng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Trong 
quá trình rèn luyện để phát triển vốn từ cho trẻ cô giáo luôn phải ân cần, kiên trì, 
yêu thương, tôn trọng, và đối sử công bằng với trẻ. Cô giáo cần mẫu mực trong 
cách giao tiếp, ứng xử khi làm việc, khi giao tiếp cùng người khác và đặc biệt 
nhất là trong giao tiếp với trẻ. Cô giáo và người lớn cần phải dụng từ ngữ văn 
minh, lịch sự nhưng gần gũi, dễ hiểu, trong phát âm phải chuẩn xác khi giao tiếp 
với trẻ để trẻ bắt chước, học hỏi.
 b, Biện pháp 2: Giáo viên phải nắm vững đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ 
nhà trẻ. 
 Muốn phát triển vốn từ cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải hiểu được 
phát triển vốn từ cho trẻ là gì? Phát triển vốn từ cho trẻ là giúp trẻ nắm vững 
được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống giao 
tiếp. Để làm được như vậy tôi phải dựa trên các cơ sở lý luận sau :
 * Cơ sở ngôn ngữ. Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ :
 5 Tiếng Việt, đảm bảo các nguyên tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ 
thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.
 Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi 
nhận thấy sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá 
lớn. Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào 
điều kiện vật chất, kinh tế của gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời 
gian trò chuyện với trẻ hay không? Cô và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về 
sinh hoạt và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và 
hướng dẫn bé kể lại không? Ngày nghỉ, bố mẹ có đưa con đi chơi, đi thăm họ 
hàng hay không?.... Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng số lượng vốn từ 
của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú 
hiểu biết và xúc cảm của trẻ.
 c, Biện pháp 3: Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các giờ hoạt động
 Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường Mầm non là công tác giáo dục có kế 
hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn 
ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy 
cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trên những hoạt động cụ thể, trong đó phát triển ngôn 
ngữ, vốn từ phải được đặt lên vị trí hàng đầu.
 * Thông qua hoạt động nhận biết tập nói :
 Đây là một hoạt động quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và 
cung cấp từ vựng cho trẻ. Trẻ lứa tuổi 24 -36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ 
máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp... 
Cho nên trong giờ hoạt động có chủ định, cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan 
đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô cũng phải chuẩn bị các 
hình thức tổ chức mới lạ nhằm hấp dẫn trẻ, một hệ thống câu hỏi rõ ràng, ngắn 
ngọn, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói câu 
cụt lủn hoặc cộc lốc.
 Ví dụ: Trong hoạt động Nhận biết tập nói: “Con gà” Cô phải chuẩn bị mô 
hình con gà, để trẻ sử dụng các giác quan: Sờ, nhìn, nếm, ngửi, nhằm phát huy 
được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ định.
 7 Ví dụ: Trẻ nghe truyện “Thỏ ngoan” Cô muốn cung cấp cho trẻ từ “Ướt lướt 
thướt”
 Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình, và giải thích từ “ướt lướt thướt”. Bên 
cạnh
đó cô cũng chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện 
và từ vừa học:
 + Bác gấu đen đi đâu? ( Đi chơi rừng ạ!)
 + Chuyện gì xảy ra với Bác? ( Bác gặp mưa ạ!)
 + Khi gặp trời mưa, bác gấu đã bị làm sao? ( Ướt lướt thướt ạ!)
 Cô kể lần 1 - 2 giúp trẻ hiểu tác phẩm và đặt tiếp hệ thống câu hỏi hướng 
vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để trẻ hiểu việc nào nên làm, việc 
nào không nên làm.
 + Qua câu truyện, con yêu quý ai? ( Bác gấu đen, bạn thỏ ạ! )
 + Vì sao? ( Vì bạn thỏ trắng, và bác gấu là những người tốt bụng ạ! )
 Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ 
mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân vật 
trong bài thơ, câu truyện. Khi trẻ ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng nhiều từ 
mới thì lúc đó trẻ sẽ thể hiện được một số câu, một số tình huống tương ứng với 
nội dung truyện đó.
 Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể truyện cho trẻ nghe, khuyến 
khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản.
 Hình ảnh trẻ trong hoạt động làm quen với tác phẩm văn học
 9 Cô nói động từ, trẻ nói ghép các danh từ chỉ người, con vật, sự vật thích 
hợp với động từ đó hoặc ngược lại như:
 Con mèo - đi Máy bay - bay
 Ô tô - chạy Con chim - bay 
 Còi tàu - kêu Vịt - kêu 
 + Trò chơi với các tính từ :
 Cô nói tính từ chỉ mầu sắc của các sự vật, phẩm chất của người ..., cháu nói 
danh từ phù hợp với các tính từ đó ( hoặc ngược lại) như: 
 Gió thổi - ào ào Chuông kêu - leng keng
 Thác đổ - ào ào Kẻng kêu - leng keng
 + Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật:
 Cô nói Trẻ làm tiếng kêu
 Con mèo Meo meo
 Con vịt Cạp cạp 
 Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác 
nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luật 
chơi.
 Bên cạnh đó việc cho trẻ tham gia các trò chơi dân gian hàng ngày như “Nu 
na nu nống, kéo cưa lừa xẻ...” cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích 
trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ.
 * Qua giờ hoạt động âm nhạc.
 Qua các hoạt động âm nhạc trẻ được nghe và cảm nhận lời bài hát qua giai 
điệu, được tiếp xúc nhiều với nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, và nhiều chất 
liệu) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại hoạt động (Vận 
động) theo bài hát một cách nhịp nhàng. Qua đó trẻ hiểu biết hơn, vốn từ rộng 
hơn, khả năng sử dụng từ tốt hơn. Đồng thời nhờ sự giao tiếp bằng ngôn ngữ trẻ 
được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc .
 Qua những giờ âm nhạc, trẻ được hát, được vận động theo nhạc, trẻ đã biết 
sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu 
tả những hình ảnh đẹp của bài hát.
 11

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_phat_trien_von_tu_cho_tre_lua_tuoi_243.doc
  • docxMỤC LỤC C PHƯỢNG.docx
Sáng Kiến Liên Quan