Sáng kiến kinh nghiệm Xây dựng đoạn văn cho học sinh THCS
Như chúng ta đều biết: Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS là vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong việc tạo lập văn bản. Từ đó, giúp học sinh hình thành ý thức và nhân cách cũng như trình độ học vấn cho các em ngay khi đang học bậc học THCS và trưởng thành sau này. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, ta rèn cho học sinh ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương, quí trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác và cũng từ đó rèn cho các em tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật. Trước hết là trong văn học có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như một công cụ để tư duy và giao tiếp.
Để rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết đoạn văn, giáo viên phải hướng dẫn cho các em cách thức viết đoạn văn, cách sử dụng vốn từ ngữ, diễn đạt câu trong đoạn văn, bố cục đoạn văn trong một văn bản, cách sử dụng các phương tiện liên kết trong đoạn văn. Tuỳ theo từng phương thức diễn đạt khác nhau mà viết theo lối qui nạp, diễn dịch, song hành hay móc xích.
Để viết được đoạn văn phải có nhiều câu kết hợp tạo thành, cũng như vậy để tạo thành văn bản yêu cầu phải có các đoạn văn liên kết với nhau mà thành (khi đã dùng các phương tiện liên kết trong văn bản).
Tuy vậy, trong giai đoạn hiện nay, có rất nhiều những phương tiện hiện đại, thông tin đại chúng cập nhật liên tục khiến cho học sinh lao vào con đường say mê “nghiện” sách vở bị lãng quên, ham bạo lực điện tử, sách kiếm hiệp. Vì vậy, các em không còn ham đọc sách, ham nghiên cứu. Cho nên, việc viết một đoạn văn lại càng là vấn đề đáng quan tâm khi chúng ta rèn luyện cho các em.Hơn thế nữa, tập làm văn là môn học thực hành tổng hợp ở trình độ cao của môn Văn – Tiếng Việt, môn Tập làm văn được xem như vị trí cốt lõi trong mối tương quan chặt chẽ với Văn và Tiếng Việt. Như vậy, chúng ta dạy Tập làm văn cho học sinh là dạy cho các em nắm vững văn bản, biết xây dựng các đoạn văn thông thường. Rèn luyện cho học sinh là rèn luyện cho các em các thao tác, những cách thức, những bước đi trong quá trình tạo lập văn bản. Vì thế, cách xây dựng đoạn văn trong phân môn tập làm văn được coi như vị trí hàng đầu. Việc rèn cách viết đoạn văn cho học sinh THCS theo trục tăng dần qua các thể loại văn học: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận thuyết minh, điều hành ( hành chính công vụ). Từ đó giúp các em biết vận dụng các thể loại văn bản để phục vụ cho học tập và trong đời sống. Qua việc tiếp thu những kiến thức của môn Văn – Tiếng Việt, học sinh vận dụng sáng tạo, tổng hợp để có thể nói hoặc viết theo những yêu cầu, những đề tài khác nhau, những kiểu văn bản khác nhau mà cuộc sống đặt ra cho các em.
n bản Chính luận, văn bản Nghị luận vào, coi nhẹ giảng bình, giáo viên giao nhiều bài tập, khó được điểm cao. Trên đây là tình trạng viết văn, dựng đoạn văn của học sinh và nó cũng có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan tác động. Cho nên chúng ta càng quan tâm nhiều hơn nữa trong việc dạy một tiết Tập làm văn, đặc biệt là dạy một tiết dựng đoạn văn trong văn bản. PHẦN II. CÁC BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm I/ Đặc điểm của đoạn văn - Đoạn văn có bố cục ba phần. Mở đoạn: Phát triển đoạn: Kết thúc đoan II/ Yêu cầu của đoạn văn đoạn văn có những yêu cầu cụ thể nhằm giúp học sinh nắm một cách khái quát về mặt hình thức cũng như nội dung đoạn văn. Từ đó, các em mới có thể viết đoạn (xây dựng đoạn) đúng với yêu cầu. Đoạn văn với việc nâng cao năng lực cảm thụ văn học của học sinh là những yêu cầu, nội dung liên quan mật thiết với nhau. Về mặt hình thức của đoạn văn : Yêu cầu trước hết là học sinh phải nắm được dấu hiệu, qui ước khi viết đoạn văn Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống hàng. Trước khi viết đoạn văn, giáo viên hướng dẫn cho các em tìm hiểu đề, xác định ý và từ việc xác định được ý chính của bài mà đi đến xây dựng câu chủ đề. Việc viết câu chủ đề đúng với ý chính đã tìm được ở trên sẽ giúp học sinh định hướng cách lựa chọn nội dung trình bày theo cấu trúc diễn dịch, qui nạp hay các kiểu cấu trúc khác. Đồng thời cũng định hướng cho các em lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, cách dùng từ ngữ cho phù hợp với cảm xúc trong bài viết của mình. Câu chủ đề có thể đứng ở đầu đoạn (theo cấu trúc diễn dịch), có thể đứng ở cuối đoạn (theo cấu trúc qui nạp) v.vCâu chủ đề phải mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, hàm xúc và thường đủ hai thành phần chính của câu : chủ ngữ và vị ngữ. Các câu còn lại trong đoạn văn có nhiệm vụ diễn giải, chứng minh, làm rõ hoặc kết luận những cảm xúc đã thể hiện trong câu chủ đề. Các câu trong đoạn văn phải được liên kết với nhau một cách chặt chẽ bằng các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ- câu liên kết, hoặc các mối quan hệ phụ thuộc, không phụ thuộc giữa các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài. Đoạn văn phải có sự lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực, giàu giá trị biểu cảm . Trên đây là những yêu cầu cơ bản nhất để có thể giáo viên vận dụng văn trong nhà trường vào nghiên cứu soạn giảng Tập làm văn, đặc biệt là vận dụng vào các tiết thực hành Tập làm văn và làm văn lớp 7 III/ Rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn Rèn các kĩ năng làm văn nói chung và viết đoạn văn nói riêng không chỉ xuất phát từ mục đích, yêu cầu của môn học (mang tính thực hành tổng hợp cao) trong nhà trường THCS mà còn là trách nhiệm, nhiệm vụ của người thầy giáo trong chương trình thay sách giáo khoa hiện nay. Điều quan trọng nhất khi viết đoạn văn là học sinh nắm vững các thao tác, cách thức trình bày đoạn văn, để từ các kĩ năng Tập làm văn phát triển thành kĩ xảo, thói quen làm văn. Xác định ý cho bài văn 2. Xác định câu chủ đề. Từ những ý đã được xác định trên đây, giáo viên hướng dẫn cho học sinh tập viết các câu chủ đề. Đây là khâu quan trọng trong việc tạo lập đoạn văn. Vì có viết được câu chủ đề thì mới có thể triển khai ý của đoạn văn và lựa chọn nội dung trình bày của đoạn văn. Trước hết, chúng ta xác định câu chủ đề mang tính khái quát cho toàn bài văn: Từ đó, giáo viên định hướng cho các em viết các đoạn văn bằng việc lựa chọn các phép liên kết, phương tiện liên kết, từ ngữ liên kết v.v.. 3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ, ngữ khi xây dựng đoạn văn. đoạn văn có một vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành một văn bản hoàn chỉnh. Vì vậy, các câu, các đoạn trong văn bản phải liên kết với nhau một cách chặt chẽ. Rèn kĩ năng viết đoạn văn và việc sử dụng các cách liên kết là một thao tác không thể thiếu được. Các đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài có thể được viết theo các cách 4. Cách viết đoạn văn Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm một cách khái quát yêu cầu của các đoạn văn mở bài, đoạn văn thân bài, đoạn văn kết bài. Đoạn văn mở bài: Khái quát được cảm xúc, tình cảm của người viết Đoạn thân bài: Triển khai mạch cảm xúc, tình cảm của người viết bằng việc sử dụng những từ ngữ gợi cảm xúc, tình cảm. Lần lượt nêu lên những suy nghĩ của riêng mình về những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man, dàn đều mà nên xoáy sâu vào các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi “a” qua “b, c, d”. Đoạn kết bài: Nêu lên những cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh dài dòng, trùng lặp, đơn điệu. Có lúc phải khen chê. Khen, chê chính là viết lời bình. Giáo viên qua những bài giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách sẽ giúp các em làm quen dần cách bình văn, biến thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ. Có lúc phải biết liên tưởng so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ đến hiện tượng khác tức là liên tưởng. 4.1.Cách viết đoạn mở bài . Trước hết phải nói rằng mở bài hay nhất là đạt hai yêu cầu sau: Tính khái quát. Tính định hướng. Từ đó, ta có thể trình bày một đoạn văn mẫu (đoạn mở bài) để học sinh học tập, bắt chước(bắt chước nhưng không ghi chép nguyên mẫu), rồi vận dụng cách bài ấy cho bài của mình. 4.2. Cách viết đoạn thân bài Quá trình viết đoạn văn thân bài, giáo viên lưu ý học sinh: Giọng văn, hơi văn không gò bó, khô khan, đảm bảo được các yêu cầu diễn đạt, dùng từ, đặt câu, lựa chọn các đặc điểm, nội dung trình bày của đoạn văn. Nghĩa là tuỳ thuộc vào mạch cảm xúc của người viết mà có cách lựa chọn cho thích hợp. Từ đề bài trên đây, ta có thể viết các đoạn văn thân bài như sau( lưu ý mỗi đoạn văn được viết ra phải xuất phát từ các ý đã tìm được ở phần trên) Như vậy, mô hình cơ bản của đoạn văn là diễn dịch và qui nạp. Nó phù hợp với mạch cảm xúc, tình cảm của người viết. Luyện viết đoạn văn ở yêu cầu không khó khăn lắm là như cách trình bày trên. Tuy nhiên, để viết được đoạn văn theo các cách trên, thì người viết phải bám sát các ý của bài, rồi luyện viết với từng ý chính đã được xác định và các câu chủ đề đã được xác lập ban đầu. 4.3.Cách viết đoạn văn kết bài. Đoạn văn kết bài nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Vì vậy, để có được một bài văn hoàn chỉnh không thể không viết đoạn kết bài. Từ câu chủ đề đã xác định được như ở trên, ta có thể viết đoạn văn kết bài như sau: Tóm lại, rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn là thực hiện các thao tác tìm hiểu đề, tìm ý, xây dựng câu chủ đề- để từ đó định hướng cho việc xây đựng từng đoạn văn. Cứ tập đi tập lại như thế ta sẽ thành thạo. Không phải chỉ thành thạo dựng đoạn độc lập mà thành thạo và nhạy cảm trong dựng đoạn của bài văn biểu cảm. Từ việc “Tập làm” đến việc “làm văn” là một quá trình đi từ việc rèn luyện kĩ năng cần thiết đến kĩ xảo (thói quen, thành thạo)– Không khó nhưng cũng không đơn giản chút nào nếu cả thầy và trò không chuyên tâm và không yêu thiết tha một tác phẩm văn học. Và thao tác cuối cùng trong một giờ luyện viết đoạn văn là : Luyện “nhận xét văn người, sửa văn mình”. Một số cách luyện tập viết văn ở đây không phải là tất cả nhưng là cách cơ bản, chúng ta nên cố gắng thực hành. Trước khi thực hành đề bài các em đọc kĩ phần dẫn giải, miêu tả về các cách ấy, tiếp nhận về mặt lí thuyết rồi bắt tay vào làm theo sáng tạo. Trong khâu tiến hành nếu thấy có gì chưa hợp lí với mình thì cần có sự điều chỉnh hoặc sáng tạo thêm. IV. Một số đoạn văn tham khảo: Đoạn văn mở bài: Chủ tịch Hồ Chớ Minh được nhõn dõn ta và nhõn dõn thế giới suy tụn là anh hựng dõn tộc, danh nhõn văn húa. Trong hoạt động và lónh đạo cỏch mạng, mỗi khi gặp hoàn cảnh đặc biệt nào đú, Người thường hứng khởi làm thơ. mỗi bài thơ của Bỏc là một mảnh tõm hồn trong sỏng, cao đẹp, hài hũa chất nghệ sỹ và chiến sỹ. Bài thơ “ Cảnh khuya”- sỏng tỏc 1947 là một tỏc phẩm như thế. Đoạn văn kết bài: “ Cảnh khuya” vừa tả cảnh ngụ tỡnh, vừa trực tiếp giói bày tỡnh cảm, tõm trạng của Bỏc Hồ vào những năm đầu của cuộc khỏng chiến chống Thực dõn Phỏp gian khổ. Đọc bài thơ, chỳng ta vụ cựng cảm mến, trõn trọng tỡnh yờu thiờn nhiờn và tấm lũng yờu nước, tinh thần trỏch nhiệm lớn lao của Người đối với dõn, với nước. Đoạn văn thõn bài viết theo lối diễn dịch: Càng về cuối, kỉ niệm tuổi thơ càng da diết, cảm động. Qua những dũng thơ ờm nhẹ, thỏnh thút như những nốt nhạc trong veo, hỡnh ảnh người bà hiện lờn đẹp như một bà tiờn vậy. Bà dành tất cả sức lực và tỡnh thương yờu cho đứa chỏu nhỏ. Bà đó tần tảo, chắt chiu chăm súc, nõng đỡ từng quả trứng, từng chỳ gà con, như chắt chiu , nõng đỡ những ước mơ hạnh phỳc nhỏ bộ, đơn sơ của đứa chỏu yờu.Hỡnh ảnh đứa chỏu mặc bộ quần ỏo mới mua từ cụng lao nuụi gà của bà ban tặng, hồn nhiờn, ngõy thơ làm sao?Chỉ là cỏi quần chộo go, cỏi ỏo cỏnh trỳc bõu là những thứ vải rẻ tiờn mà ngày nay ớt dựng nhưng đứa chỏu vụ cựng cảm động, sung sướng.Đấy đõu chỉ là bộ quần ỏo dài rộng, cựa quậy một tớ đó kờu sột soạt mà đấy cũn là biết bao hạnh phỳc, biết bao tấm lũng của bà dành cho chỏu. Đoạn văn thõn bài viết theo lối quy nạp: Hỡnh ảnh và tõm trạng người thiếu niờn - những chiến sỹ chống Mỹ thời tuổi ấu thơ - được khắc họa chõn thực, mang bản chất nụng dõn, bản sắc Việt Nam, thật là đỏng trõn trọng. Đú là những con người giản dị, được lớn lờn trong tỡnh yờu thương, nõng đỡ của quờ hương, của những người ruột thịt. Được hưởng hạnh phỳc ấy, họ thực sự cảm động và mói nhớ ơn quờ hương, ụng bà, cha mẹ.Riờng với nữ sỹ Xuõn Quỳnh, cú lẽ mối tỡnh sõu nặng và õn nghĩa nhất là tỡnh bà chỏu. Nếu khụng nhớ thương, khụng biết ơn bà, làm sao mà viết được những cõu thơ, ghi lại được kỉ niệm đẹp như thế. Thơ với đời, hiện tại và quỏ khứ đan xen, gắn bú hài hũa, tự nhiờn, hồn nhiờn trong veo như nắng trưa hố vậy. Đoạn văn viết theo lối song hành: Trờn mảnh đất Việt Nam, cõy lỳa, hạt gạo đó trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp kỡ diệu của mảnh đất và tõm hồn tinh tế của con người. Bằng một tỡnh yờu đằm thắm, nhà văn Nguyễn Đỡnh Thi trong tỏc phẩm “ Bài ca Hắc Hải”đó ca ngợi đồng lỳa, đất trời Việt Nam trong hai cõu thơ bất hủ: “ Việt Nam đất nước ta ơi! Mờnh mụng biển lỳa đõu trời đẹp hơn” Trước Nguyễn Đỡnh Thi cú một nhà văn, bằng ngũi bỳt thiờn tài của mỡnh cũng đó dành tỡnh yờu và bao ngụn từ đẹp như thơ để ca ngợi cõy lỳa Việt Nam.Đú là Thạch Lam với bài tựy bỳt” Một thứ quà của lỳa non: Cốm” Cốm là sản vật được tạo nờn bởi những hạt lỳa nếp non, một sản vật độc đỏo của ruộng đồng nhiều miền quờ Việt Nam, nhưng khụng đau làm ra được thứ cốm thơm, dẻo, ngọt, ngon bằng làng Vũng ở thủ đụ Hà Nội. Chỳng ta cựng đọc văn Thạch Lam, cựng thưởng thức cốm Vũng- đặc sản Hà Nội, đặc sản việt Nam. V: Tiến hành thực nghiệm. Để kiểm chứng kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm của học sinh tôi tiến hành các bước thực nghiệm sau: - Chọn đối tượng học sinh đại trà ở hai lớp: 7A và 7B (Đủ 3 đối tượng: giỏi, khá, TB, yếu). - Về cơ sở vật chất: Phòng học thông thoáng, có đủ bàn ghế, điện lưới để phục vụ Dạy - Học. - Sự chuấn bị của giáo viên ở 2 lớp: + ở lớp 7A: Chúng tôi tổ chức ôn tập các đơn vị kiến thức về kiểu loại biểu cảm. + ở lớp 7B: Chúng tôi tổ chức cho các em rèn luyện cách viết các đoạn văn Biểu cảm. - Sự chuẩn bị của học sinh: + Sách giáo khoa, vở ghi, vở nháp, vở bài bập, các tài liệu có liên quan đến bài học: Cách cảm thụ các dạng Tập làm văn - Lớp 6,7 - Về thời gian: Dạy - Học 3 tiết/lớp. Bố trí học 2 buổi chiều (Ngoài giờ học chính khoá). - Ra đề: Yêu cầu của đề bài phải mang tính vừa sức, tính khoa học, chính xác, phù hợp với đối tượng học sinh lớp 7. Đề bài1: Cảm nhận của em sau khi đọc bài thơ "Cảnh khuya" của Hồ Chí Minh. (Lớp 7A) Đề bài2: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh. (Lớp 7B) * Qui trình Dạy - Học ở lớp 7A - Chúng tôi thực hiện các bước sau: Hoạt động 1: Khởi động bằng việc kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của các em và GV chọn một bài văn biểu cảm cho HS đọc trước lớp rồi xác định các phần trong bài làm của người viết - Trình bày các ý chính trong mỗi phần: Mở bài, Thân bài, kết bài. Hoạt động 2: GV tổ chức cho HS ôn tập các đơn vị kiến thức đã học về văn Biểu cảm. Cụ thể: I/ Khái niệm văn Biểu cảm. II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm. III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm. Hoạt động 3: GV tổ chức cho người học viết các đoạn văn biểu cảm theo yêu cầu của người dạy. Đối tượng biểu cảm là một số tác phẩm thơ, hoặc đoạn thơ. Hoạt động 4: GV cho lớp tiến hành thảo luận và nhận xét, đánh giá các đoạn văn của HS. Hoạt động 5: GV củng cố kiến thức và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí minh. Hoạt động 6: GV thu bài và dặn dò HS. ở lớp 7B Chúng tôi thực hiện các bước sau: Hoạt động 1: GV tổ chức cho HS nắm lại các đơn vị kiến thức sau: I/ Khái niệm văn Biểu cảm. II/ Đặc điểm của văn Biểu cảm. III/ Các yêu cầu khi làm bài văn Biểu cảm. Hoạt động 2: Tổ chức rèn luyện các kĩ năng viết đoạn văn biểu cảm: 1. Xác định ý cho đoạn văn Biểu cảm. 2. Xác câu chủ đề cho mỗi đoạn văn. 3. Liên kết đoạn văn và cách dùng từ ngữ khi xây dựng đoạn văn. 4. Cách viết đoạn văn Biểu cảm: 4.1. Cách viết đoạn văn Mở bài. 4.2 .Cách viết đoạn văn Thân bài. 4.3. Cách viết đoạn văn Kết bài. Hoạt động 3: GV củng cố cách viết đoạn văn Biểu cảm và tiến hành khảo sát bằng đề bài sau: Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ "Rằm tháng giêng" của Hồ Chí Minh. Hoạt động 4: GV thu bài và dặn dò HS. PHẦN III. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Kết quả đạt được như sau Phân loại Lớp Giỏi Khá Trung bình yếu, kém SL % SL % SL % SL % 7A = 42 1 2,4 11 26,2 22 52,4 8 19,0 7B= 43 2 4,7 17 39,5 25 41,8 6 14,0 III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1.ý nghĩa, BÀI HỌC. Việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn cho học sinh THCS có tầm quan trọng rất lớn trong việc dạy và học Tập làm văn. Nó chiếm vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trường THCS, góp phần hình thành con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị cho họ học ở bậc cao hơn, hoặc vận dụng vào thực tiễn cuộc sông. Xét về môn học, đây là phân môn thực hành tổng hợp ở mức độ cao của phân môn Văn và Tiếng Việt, nó có mối tương quan chặt chẽ với văn và Tiếng Viết. Dạy luyện viết đoạn văn là dạy cho học sinh nắm bắt văn bản, biết xây dựng các loại văn bản thông thường. Ta hiểu đầy đủ rằng dạy cách viết đoạn văn là dạy cho học sinh hiểu từng loại văn bản cụ thể, cách xây dựng đoạn văn trong bất kì loại văn bản nào. Đây là bước đi, thao tác, cách thức trong quá trình học tập văn bản. Trong chương trình hiện nay, bộ môn Tập làm văn được tích hợp cùng phân môn Văn và Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn mới .Tiết dạy dựng đoạn trong văn bản cũng được quan tâm nhiều hơn trong việc nắm được thể loại trong chương trình. Từ đó, rèn luyện cho học sinh kĩ năng diễn đạt đúng và hay bằng các hình thức, thao tác mà chủ yếu là viết đoạn văn một cách sáng tạo tổng hợp những kiến thức tiếp thu được qua phân môn Tiếng Việt và văn học. Viết đúng, viết hay là nhiệm vụ hàng đầu mà giáo viên quan tâm, yêu cầu viết đúng về đề tài thể loại, những kiểu văn bản khác nhau trong cuộc sống đặt ra cho các em. Ngoài ra, qua việc rèn luyện viết đoạn văn cũng trực tiếp tham gia rèn luyện một số đức tính cho sinh như lòng nhân ái, tính trung thực, sự kiên trì lòng dũng cảmViết đoạn văn góp phần phát triển trí tưởng tượng, óc sáng tạo để từ đó giúp các em biết phân biệt cái sai, cái tốt, cái xấu... Và cũng từ đây các em được nuôi dưỡng tâm hồn vươn tới cái tốt đẹp hơn. Qua tiết học, ta nắm được ưu thế của học sinh và phát huy được những khả năng làm văn của các em. Từ đó, học sinh có dịp để uốn nắn điều chỉnh, hạn chế những lệch lạc trong nhận thức, đời sống tư tưởng tình cảm của của các em. Cũng từ đó, hiệu quả giáo dục của Tập làm văn nói chung, viết đoạn văn nói riêng được nâng cao và được học sinh yêu thích. Qua việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn, học sinh được uốn nắn, điều chỉnh, hạn chế những thiếu sót trong quá trình làm văn ở những cấp học cao hơn. Ngoài ra các em còn được bồi dưỡng về tâm hồn, trí tuệ, biết rung động trước cái đẹp, biết hướng tới giá trị thẩm mĩ, có năng lực sử dụng ngôn ngữ, bjiết tích luỹ vốn tri thức và vận dụng trong giao tiếp ở mọi hoàn cảnh khác nhau. Dùng từ đặt câu, viết đoạn sẽ được các em vận dụng tốt trong mọi điều kiện để hướng tới cái chân – thiện – mĩ, biết tự hào và sử dụng Tiếng Việt trong sáng, hoàn mĩ hơn. Cũng từ việc rèn kĩ năng viết đoạn giúp học sinh vận dụng để viết được nhiều đoạn văn và viết tốt ở nhiều thể loại. 2. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn vẫn còn nhiều hạn chế. Vì đây là một tiết khó của môn học, nếu đơn thuần giáo viên không hướng dẫn cụ thể về cách tìm hiểu đề, tìm ý, mỗi ý tương ứng với bao nhiêu đoạn trong văn bản. Hoặc học sinh chưa tìm được câu chủ đề để từ đó phát triển mở rộng thành đoạn văn. Để tích hợp được với văn và Tiếng Việt, giáo viên chưa hướng dẫn khái niệm đoạn văn, câu chủ đề, quan hệ giữa các câu và cách trình bày đoạn văn. Qua đó, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn theo các yêu cầu về cấu trúc và ngữ nghĩa. Hạn chế nữa là trong chương trình SGK Ngữ Văn THCS học sinh không được học các nội dung trình bày trong đoạn văn theo các đặc điểm, cấu trúc diễn dich, qui nạp, song hành, móc xích. Do đó, khi xây dựng đoạn văn, học sinh rất lúng túng trong việc đặt vị trí câu chủ đề trong đoạn. Hơn nữa, trong quá trình luyện viết các đoạn văn, học sinh còn lúng túng trong việc tìm hiểu đề, xác định ý, xây dựng câu chủ đề. Khi lựa chọn các phép liên kết câu, liên kết đoạn trong văn bản các em còn vụng về, đôi khi không nắm vững các đơn vị kiến thức này. Và việc lựa chọn, dùng từ đặt câu ở một số học sinh còn nhiều hạn chế: như dùng từ, ngữ không trong sáng, thiếu trau chuốt, từ ngữ không có tính lôgic. Hơn nữa, giáo viên chưa thật kiên trì trong việc cung cấp những đơn vị kíên thức về xác định ý, viết câu chủ đề, xây dựng đoạn theo các đặc điểm (diễn dịch, qui nạp), các phép liên kết câu, liên kết đoạn, và uốn nắn cách viết đoạn cho học sinh. II. kiến nghị và đề xuất Sắp xếp số lượng kiến thức hợp lí cho một tiết dạy có khả năng phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh mà các em học không bị nhàm chán. Các đoạn văn mẫu phải đa dạng phong phú hơn về từng lượng kiến thức. Tiết học mang nặng tính thực hành, nên cho học sinh thực hành nhiều, viết nhiều các đoạn văn (tất nhiên không qúa thời gian tiết học và sức tiếp thu của học sinh). Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng trước năng lực thực hành của mỗi học sinh. ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành, trước những thao tác và kĩ năng thực hành của học sinh. Yêu cầu giáo viên dày công luyện tập cho các em, kiên trì trong việc đánh giá kết quả không nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao. Tuỳ từng đối tượng ở các khối lớp, tuỳ từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng đắn. Với phương châm là người truyền đạt kiến thức và chủ thể tiếp nhận kiến thức và mục đích cuối cùng là viết được các đoạn văn sáng tạo với đầy đủ các kĩ năng mà các em tiếp thu được. Về số lượng tiết học viết đoạn văn còn quá ít, nên tăng cường thêm số lượng cũng như thời gian cần được phân bố cân đối hài hoà để tránh học sinh ngại học căng thẳng mà ngược lại các em ham học hơn. Trong sự phát triển đi lên của đất nước và của văn học nước nhà, văn học nhân loại, trong đó có không ít các nhân tài đất nước là giáo viên, là học sinh- chủnhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc dạy chữ, dạy người là rất cần thiết. Đặc biệt trong nhà trường THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp cận với kiến thức nhân loại, phân biệt cái tốt, cái xấu, cái phải cái trái đối với học sinh cũng là vấn đề then chốt. Hơn nữa, giúp các em ham học, thích học môn văn (trong đó có môn Tập làm văn, thực hành các kĩ năng viết các đoạn văn) cũng là vấn đề mà giấo viên cần nghiên cứu. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước.
File đính kèm:
- SKKN_Ngu_van.doc