Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú trong giờ học cho học sinh lớp 4
Với mục tiêu giáo dục hiện nay của trường tiểu học là phải xây dựng môi trường sư phạm an toàn, khang trang đảm bảo cho học sinh “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Cũng như thông qua các hoạt động giáo dục trên lớp nhằm rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Thực hiện tốt phương châm : dạy chữ kết hợp dạy người, phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự tin, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm của giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm tạo bước chuyển mới về chất lượng giáo dục trong nhà trường. Đứng trước yêu cầu đó, nhiệm vụ đặt ra cho người giáo viên tiểu học là việc bên cạnh truyền đạt kiến thức thì việc giúp các em phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo trong học tập, tạo môi trường học tập tích cực, thân thiện cũng vô cùng quan trọng. Một trong những việc làm tạo nên môi trường học tập thân thiện là người giáo viên giúp học sinh biết chủ động, tự giác, say mê, khuyến khích tính tích cực và tinh thần tự học sao cho các em biết ham học tập, thích tìm hiểu, khám phá, thích ứng được với thực tiễn xã hội luôn phát triển. Nhu cầu này góp phần không nhỏ trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục dẫn đến sự thay đổi tất yếu về phương pháp dạy học, trong đó phải kể đến luôn “ Tạo hứng thú trong giờ học cho học sinh lớp Bốn”. Đó là lí do chọn đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi trong năm học này.
vui và hứng thú trong việc học được nhân lên bội lần. Mỗi ngày, mỗi giờ học, tôi chọn một niềm vui, đem đến học sinh, đem đến lớp học. Còn đối với các tiết học ngoại khóa, ví như tiết học về An toàn giao thông, cho học sinh xem một số hình ảnh về tai nạn giao thông và yêu cầu học sinh nói về hậu quả của nó. Hướng dẫn học sinh biết cách đội mũ bảo hiểm, ra sức thực hiện tốt An toàn giao thông. Hỏi trong lớp có em nào đã thực hiện An toàn giao thông. Học sinh kể ra từ đó giáo dục các em. Khi tham gia giao thông phải có văn hóa, đi về phải đi bên phải, chạy xe hàng một, qua đường phải biết xem trước, ngó sau, biết giúp đỡ cụ già, em nhỏ khi qua đường bằng những việc làm cụ thể. Nghĩa là người thật gắn liền với việc thật. Với tình huống trên, tôi muốn đem đến cho các em biết sống đẹp, có văn hóa. Từ đó, học sinh học tập được việc làm có ý nghĩa từ người bạn của mình. Khi học sinh có cảm hứng trong học tập thì học sinh sẽ ra sức quyết tâm chứng tỏ với tôi là mình không thua kém bạn. Nhân rộng thêm ở lớp, các em sẽ sống “Mình vì mọi người , mọi người vì mình” biết “ Sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, nhà trường, xã hội, đất nước”. Tôi còn tổ chức các hoạt động vui chơi tập thể lành mạnh thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Ví dụ như là hoạt động thể thao, để ý các em tự tổ chức chơi thể thao rất vui làm tôi vui lây và tham gia cùng các em. Khi tham gia các trò chơi bổ ích, tôi để ý và phát triển khả năng sở trường từng em. Đây là việc làm hết sức quan trọng để tôi hiểu được mặt mạnh của từng em, từng nhóm để có biện pháp giáo dục tích cực và toàn diện, thông qua những niềm vui, niềm hân hoan hiện rõ trên khuôn mặt từng em. Khuyến khích tham gia chủ động, tự giác của học sinh.. Muốn làm được điều này, tôi “ bày trận” ở những tiết hoạt động tập thể, đa dạng về hình thức. Các em có thể đánh bóng, đá bóng chơi cầu lông, đọc truyện tranh, chơi trò chơi dân gian: ô ăn quan, cờ tướng, chọi cầu ( chọn trò chơi dân gian bổ ích, thiết thực)...Tôi còn tạo sân chơi lành mạnh, dựa vào chủ điểm tháng trong chương trình. -Tháng 9 tham gia “ Đêm hội trăng rằm”, thi làm lồng đèn, thi kể chuyện về chị Hằng, chú Cuội, trình bày và chọn những sản phẩm đẹp và có ý nghĩa giáo dục. -Tháng 11: Phối hợp với giáo viên mĩ thuật tổ chức vẽ tranh về đề tài Ngày Nhà giáo Việt Nam . Vật liệu là giấy, bút, màu...Các em tự làm, trình bày- trưng bày- bình chọn. Ban giám khảo là các em, các em tự chọn sản phẩm đẹp, nhằm phát triển tính sáng tạo, óc thẫm mĩ, thể hiện tình cảm tình thầy trò và trưng bày ở bảng hoạt động của lớp. -Tháng 12: Tổ chức vui chơi bằng những lời chúc tốt đẹp. Chọn một học sinh theo đạo Thiên chúa đóng vai, nhập vai ông già Nô- en để chúc. -Tháng 1và 2: Thi nói lời chúc năm mới. Qua đó, giáo dục các em đón Tết Nguyên đán lành mạnh, tiết kiệm, an toàn, tâm trạng ai cũng vui như hội. Đối với những em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, tổ chức lớp đến thăm để thể hiện nét tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ta Thương người như thể thương thân. Tiện đó, tôi muốn giáo dục học sinh tham gia tốt những hoạt động xã hội, biết đem đến niềm vui cho người khác, các phong trào đó chính là sân chơi lành mạnh, cần thiết. Nó còn là tiêu chí để tôi và lớp bình chọn học sinh xuất sắc của lớp vào dịp giữa học kì và cuối năm học. đ)Tạo tâm thế bình yên cho học sinh khi vào lớp học: Trong mỗi chúng ta, ai cũng có niềm vui hay nỗi buồn thì học sinh cũng vậy. Mỗi ngày các em đến trường đều mang những tâm trạng khác nhau. Nếu bài hôm đó khó tiếp thu hay nét mặt các em thể hiện sự mệt mỏi. Lúc đó, tôi tổ chức một trò chơi tại chỗ để các em lấy lại hứng thú. Trò chơi, tôi chuẩn bị khá nhiều. Ví dụ: Trời ta- Học sinh đáp: ta đứng. Ngắn – dài -cao -thấp ( miệng hô- tay làm theo). Cứ như thế , ta cải thiện trò chơi sang ngày khác để tăng phần hấp dẫn và hứng thú trong học tập. Ví dụ: Miệng hô: ngắn- dài- cao- thấp, nhưng động tác từ hai tay của tôi không làm theo vậy. Nghĩa là yêu cầu học sinh làm theo động tác tôi làm chứ không làm theo lời tôi nói. Em nào làm chậm sẽ lên giải bài tập. Như vậy, học sinh làm bài một cách rất tự nhiên, thoải mái. Nếu có em làm bài điểm thấp nên buồn, chán nản thì tôi động viên bằng những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ có trong chương trình để thổi vào tâm hồn em một luồng sinh khí nhằm làm xua tan chán nản, đánh thức niềm đam mê trong học tập... Chẳng hạn:Thua keo này bày keo khác, thất bại là mẹ của thành công, chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo,...Như vậy là vừa động viên, vừa giúp các em biết cách ứng xử bằng những kiến thức đã học vào trong thực tế để giúp câu chuyện trở nên hấp dẫn, tạo sự hưng phấn cho người nghe. Ví dụ: Môn Tập đọc: Kinh nghiệm cho thấy, để giúp các em thích học thì tôi luôn dùng lời động viên hết mình là chính. Trong đó, tôi luôn đề cao tính tự học, tự thi đua giữa các em với nhau thì các em rất thích. Đặc biệt khi luyện đọc đúng hoặc đọc hay, tôi hay sử dụng câu “ con thi đua đọc với bạn A, B, C,..xem ai đọc đúng và hay hơn nhé?” thì nét mặt các em vui và sẵn sàng chấp nhận một cách rất tự nhiên và tích cực. Có em nhanh nhảu tự giác bắt cặp để thi đọc. Lúc đó, tôi thấy tiết học nhẹ nhàng nhưng học sinh thì làm việc rất nhiều, hiệu quả tiết dạy rất cao. Môn Toán: Tôi ôn dạng bài cơ bản – đa số là như vậy. Học sinh có nhiệm vụ giao bài tập cho bạn làm bài rồi kiểm tra nhau. Học sinh thường xuyên tự kiểm tra những kiến thức mà các em vừa học hoặc học đã lâu để giúp nhau tiến bộ. Thời gian kiểm tra do các em tự quy định với nhau. Và đặc biệt nên cho các em phải kiểm tra qua lại với nhau, nhằm tạo tính thân thiện, công bằng, không có em nào tự cảm thấy là mình quá tệ . Mà ngược lại, em nào cũng có sự hãnh diện riêng vì được giúp bạn . Làm thế, tôi thấy các em rất chịu học, vì em nào cũng muốn thể hiện mình. Còn đối với phân môn Tập làm văn về phần cây cối, tôi cho học sinh biết vận với môn Mĩ thuật mà các em đã vẽ tanh chủ đề về phong cảnh , để làm bài theo yêu cầu. Làm vậy vừa giúp các em bớt căng thẳng, ta còn chốt được là tả theo kiểu cắt nhỏ bức tranh, tả từng bộ phận trong tranh theo trình tự hợp lí. Dựa vào bức tranh, ta có thể chốt: Các em tả một bài văn cũng như vẽ một bức tranh gồm có mảng chính, mảng phụ. Mảng chính, khi các em cần tả kĩ, lồng tình cảm, biết bày tỏ cảm xúc đúng lúc, hợp lí, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, liên tưởng vào bài viết. Còn mảng phụ làm cho mảng chính đẹp hơn. e) Chú trọng đề cao kịp thời thành công của trẻ và khen ngợi đúng lúc: Bên cạnh việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy- trò, giữa trò- trò với nhau cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn hòa bầu không khí thân ái, hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cả thầy và trò. Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục có mục đích, tính kỉ luật ý thức trách nhiệm cho học sinh, chúng ta phải tổ chức cho học sinh có một cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, thoải mái, gần gũi, tạo được nhiều niềm vui, phấn khởi sao cho học sinh mỗi ngày đến trường có nhiều niêm vui. Học sinh tiểu học rất thích khen và được khen. Nếu hôm ấy, các em học có tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng cho các em một lời khen. Chẳng hạn: Con học có tiến bộ, thầy rất vui hoặc con giỏi quá! Con giỏi lắm!...Như vậy, các em sẽ rất thích. Các em khi mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính, và cần chú trọng về mặt thành công của trẻ. Đặc biệt là những học sinh yếu, tôi quan tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói, động viên khen ngợi, khuyến khích các em, trân trọng những cố gắng, dù vẫn còn nhỏ, phát triển cái ưu. Đối với những em chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, tôi không ghi điểm kém mà cho nợ điểm. Hình thức đó, tạo cho các em có tâm thế bình yên trong học tập. Lời khen đúng nó thật diệu kì, nhưng nên nhớ không nên lạm dụng lời khen quá mức sẽ có tác dụng ngược lại. Chuyện là vậy, tôi thường khen ngợi em lớp trưởng và đưa em lên làm tấm gương cho các bạn noi theo. Thỉnh thoảng tôi có bỏ qua một số lỗi lầm nhỏ của em. Nhưng đến khoảng một tháng sau lại có chuyện xảy ra. Tôi nhận thức ý kiến phản ánh của lớp về tính kênh kiếu, thiếu tôn trọng các bạn, có ý muốn làm đàn anh, đàn chị. Chứng kiến được cảnh bắt nạn bạn trong giờ học hay giờ ra chơi còn dõng dạc tuyên bố: “ Thầy không bao giờ phạt mình đâu, vì mình làm lớp trưởng.” Tôi băn khoăn sẽ làm gì để khắc phục chuyện này. Mặc dù em quản lí lớp rất tốt nhưng cách nói năng và đối xử với các bạn cần xem lại. Làm sao để vừa giữ được nề nếp của lớp, vừa tiếp tục phát huy năng lực của em lớp trưởng và giúp em sửa được tính xấu. Cuối cùng, tôi quyết định nói chuyện trực tiếp với em vào lúc giờ ra chơi. Là một học sinh thông minh, nhạy bén và hiểu vấn đề rất nhanh nên buổi nói chuyện giữa tôi và học sinh đã khiến em hiểu ra nhiều điều bổ ích có quanh em. Từ đó, những gì em làm tốt, tôi động viên, khích lệ và khen ngợi. Nhưng với những lỗi em mắc phải, tôi không thờ ơ bỏ qua mà nghiêm túc nhắc nhở, phân tích và chỉ tận tình cái sai, cái chưa được trong cách làm để em hiểu. Thế là tôi được một tập thể đoàn kết yêu thương và biết giúp đỡ nhau. Từ đó, lớp trưởng lấy lại tình cảm của các bạn trong lớp, trở thành một con người chững chạc, biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, yêu cái đúng, ghét cái sai và sống đầy trách nhiệm với công việc được giao và giàu lòng tình yêu thương với bạn bè. g) Hướng dẫn học sinh học theo hướng tự phát hiện kiến thức: Từ những vấn đề trên giúp tôi tạo được sự hứng thú trong học tập. Để hướng dẫn các em học tập theo hướng tự phát hiện kiến thức. Ví dụ: Để học sinh hứng thú trong phân môn Tiếng Việt còn được có thể tạo ra bằng cách kể cho các em nghe về cuộc đời riêng của tác giả. Ngoài việc, khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học. Giờ tập đọc ở bước luyện đọc, tôi không hướng dẫn học sinh đọc nối tiếp nhau mà đọc theo kiểu “ Gọi nhau” để tất cả học sinh có sự tập trung, dạy theo kiểu cá thể hóa: lắng nghe, phát hiện cái sai của nhau để giúp nhau sửa,...Theo tôi, để học sinh có hứng thú trong học tập không chỉ có làm tốt ở phần nội dung của bài mà còn phải làm tốt các khâu như giới thiệu bài. Ở phần này để tạo hứng thú cho các em ta cần có nhiều cách giới thiệu bài khác nhau theo từng ngày, từng tiết để tránh sự nhàm chán. + Lấy mục đích, yêu cầu để giới thiệu. + Tạo một cuộc hội thoại nhỏ giữa tôi và học sinh về những vấn đề có liên quan đến nội dung bài học, tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở và tích cực. + Nêu một vấn đề có liên quan đến nội dung bài để học sinh trải nghiệm, để huy động vốn hiểu biết của các em vào việc tiếp nhận kiến thức mới. + Kể một câu chuyện ngắn có liên quan đến bài mới. Thế là ta khêu gợi tính tò mò, kích thích sự hứng thú của học sinh đối với việc tìm hiểu bài. + Cũng có thể là một trò chơi nhỏ khi dạy bài mới Tính từ, kiểm tra bài cũ, tôi chơi trò chơi làm theo động tác ngắn- dài; cao- thấp. Sao mỗi lần, động tác cứ nhanh dần lên để các em làm theo thật là vui và tôi nói: “ Những từ ngắn- dài; cao – thấp thuộc từ loại gì? Hôm nay các em học bài Tính từ sẽ biết.” + Đưa ra “ câu đố” đòi hỏi học sinh làm xong bài sẽ trả lời. + Để huy động tối đa sự tham gia tích cực của tất cả học sinh trong quá trình học tập, tôi thường tách nhỏ câu hỏi. Đây là cách dẫn dắt học sinh nhận thức từng bước, từng chi tiết đến tổng thể. Cách làm này giúp ta thực hiện dạy học phân hóa đối tượng học sinh trong lớp và huy động nhiều học sinh tham gia tìm hiểu bài. Qua đó cũng giúp học sinh tự nhận thức, chiếm lĩnh kiến thức theo từng bậc, từ dễ đến khó, từ cơ bản đến phức tạp và luôn có bổ sung thêm câu hỏi phụ. Với bài tập viết đoạn văn ngắn về tả con vật. Tôi muốn học sinh khá, giỏi trong lớp giúp học sinh yếu có thêm vốn từ ngữ để viết giàu hình ảnh về nội dung và bước đầu các em tự tin trong viết đoạn. Từ đó, tôi cũng có thể hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy khi tả một con vật mà em thích, dĩ nhiên phần này tôi phải tích hợp qua môn Mĩ thuật các em đã học ở tiết trước, vì các em đã biết vẽ con vật nên các em chỉ dựa vào đó để trình bày bằng lời sau khi đã sử dụng những nét thẳng, cong, hình khối,...để phác họa con vật. Còn ở môn Toán. Bài Diện tích hình bình hành. Tôi yêu cầu học sinh vẽ hình bình hành như sách giáo khoa, có kí hiệu đáy, chiều cao rồi cắt, ghép hình theo gợi ý. Việc này là cả lớp cùng thực hiện một cách đồng bộ. Yêu cầu các em ghép thành chữ hình chữ nhật. Ghép xong, học sinh trao đổi theo nhóm nhỏ với các câu hỏi : H : Diện tích hình chữ nhật so với hình bình hành? H : Chiều dài của hình chữ nhật so với đáy của hình bình hành? H : Chiều rộng của hình chữ nhật so với chiều cao của hình bình hành? Học sinh trả lời các câu hỏi trên và nêu cách tính diện tích hình bình hành. Tiếp theo, nếu đáy của hình bình hành gọi là a và chiều cao của nó là h, diện tích gọi là s thì công thức tính diện tích của hình bình hành được ghi thế nào? Học sinh trình bày vào bảng con để tôi đánh giá khả năng làm việc của các em thế nào. Sau đó, ta đưa ra một cách tổng quát về diện tích hình bình hành: Diện tích hình bình hành bằng độ dài đáy nhân với chiều cao (cùng một đơn vị đo). S = a x h ( s là diện tích, a là độ dài đáy, h là chiều cao của hình bình hành) Với cách học sinh tự phát hiện kiến thức sẽ giúp các em biết dựa trên những kiến thức đã học ( tức là những hình quen thuộc), tư duy để biết cách tính diện tích của một số hình. Để tạo hứng thứ trong học tập, tôi còn sử dụng đồ chơi trong học tập. Đồ chơi là những vật dụng đơn giản, dễ làm từ những băng giấy mà ta có thể hướng dẫn các em tự rút ra cách tìm hai số khi biết tổng- hiệu của hai số đó. Điều quan trọng không thể thiếu trong một tiết dạy là bước củng cố bài. Thực tế cho thấy, nếu thực hiện tốt bước củng cố bài, ta sẽ từng bước rèn luyện cho học sinh phương pháp tích lũy vốn kiến thức. Củng cố kiến phải đảm bảo hai yếu tố sau: tái hiện và sáng tạo ( vừa củng cố kiến thức đã học vừa có sự liên quan đến kiến thức ngày mai để khêu gợi tính tò mò, đánh động sự khám phá hứng thú học tập ở học sinh khá, giỏi ). Trong một tiết học, học sinh có thể thực hiện nhiều hoạt động, có thể làm nhiều bài tập, các em khó lòng ghi hết những gì đã học. Do vậy, ta cần giúp các em tự rút ra và tự ghi nhớ một số nội dung cốt lỏi của bài học cũng như ý nghĩa thực tiễn. Tôi thực hiện nhiều cách làm để tránh sự nhàm chán. Cụ thể: + Chốt theo nội dung, yêu cầu của bài học, khắc sâu kiến thức, kĩ năng mà bài học yêu cầu. + Đưa ra một số câu hỏi về ý nghĩa của bài học, học sinh suy nghĩ và liên hệ thực tế. + Tổ chức một số trò chơi học tập để bước đầu học sinh biết vận dụng, thực hành kiến thức kĩ năng vừa học. + Với phương châm vừa học vừa chơi, trong nội dung trang trí lớp học, tôi còn có góc kiến thức môn Toán: các công thức tính chu vi, diện tích, cách tính thuận tiện,...Luyện từ và câu, bao gồm các kiểu câu chia theo mục đích nói, danh từ, tính từ, động từ, các từ biểu thị mức độ,... Chính tả: quy tắc viết đúng chính tả,...Tập làm văn: những bài văn, đoạn văn hay về nội dung cũng như cách trình bày để các em có điều kiện tham khảo. Đối với học sinh yếu, việc rèn kĩ năng nhớ ngay là rất khó nên phải sử dụng đến hoạt động của bảng lớp để các em hàng ngày thấy và lâu ngày sẽ nhớ để vận dụng. Tôi yêu cầu các em phải xem các kiến thức ở bảng lớp khoảng 5 phút đến 10 phút mỗi ngày vào thời điểm trước khi vào học và bắt đầu giờ ra chơi để tạo thói quen. Với cách học như vậy thì các em yếu mới có cơ hội hòa nhập. Một khi các em đã thuộc bài, hiểu bài và làm bài được thì mới tạo được sự hứng thú trong học tập của các em. Kinh nghiệm trong quá trình dạy lớp để áp dụng cho từng năm học và trong năm học này, bước đầu tôi nhận thấy, các em học sinh lớp 4.6 có một số chuyển biến tích cực sau: IV) KẾT QUẢ: Về chuyên cần được theo dõi theo tháng: Sĩ số: 9 Chuyên cần đi học Tháng 8 và 9 7em đi học đều (2 em có xin phép nghỉ học một buổi) Tháng 10 7em đi học đều (1 em có xin phép nghỉ học một buổi, một em nghỉ một buổi học không có phép) Tháng 11 8 em đi học đều (1 em có phép một buổi học) Tháng 12 9 em đi học đều Dựa vào số liệu thống kê chuyên cần đi học của các tháng ( từ tháng 8 đến tháng 12) , nhận thấy các em đi học có đều hơn. Học sinh nghỉ học không phải vì chán học mà do bị bệnh. Có em nhà không có điện thoại nên không thể liên lạc với tôi được và cũng không thể ra trường xin phép, vì lí do nhà không có ai giữ em nhỏ. Về chất lượng khảo sát đầu năm Điểm 1 2 3 4 <5 % 5 6 7 8 9 10 >5 % Đọc 1 1 3 2 1 1 8 88,9% Viết 1 2 3 33,3% 3 2 1 3 33,3% Tiếng Việt 1 1 11,1% 2 4 2 6 66,7% Toán 1 2 3 33,3% 3 3 6 66,7% Chất lượng giữa học kì 1 Điểm 1 2 3 4 <5 % 5 6 7 8 9 10 >5 % Đọc 1 1 11,1% 2 3 2 1 8 88,9% Viết 1 1 2 22,2% 3 2 2 4 44,4% Tiếng Việt 2 2 3 1 1 7 77,8% Toán 1 1 2 22,2% 2 2 1 1 1 5 55,6% Số liệu thống kê cho thấy môn Tiếng Việt có tiến bộ. Môn Toán đã hạn chế giảm dần tỉ lệ điểm yếu và tỉ lệ điểm khá, giỏi của bài kiểm tra sau luôn cao hơn trước( đặc biệt là điểm giỏi) Một số chuyển biến khác Sĩ số : 9 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 Mạnh dạn- tự tin 2 em Tỉ lệ: 22,2 % 2 em Tỉ lệ: 22,2 % 4 Tỉlệ: 44,4% 6 erm Tỉ lệ: 66,7% Nêu ý kiến 0 em Tỉ lệ: 0 1em Tỉ lệ: 11,1% 3 Tỉ lệ: 33,3% 3 Tỉ lệ: 33.3% Trật tự 5em Tỉ lệ: 55,6% 9em Tỉ lệ; 100% 9em Tỉ lệ; 100% 9em Tỉ lệ; 100% Sĩ số Hứng thú Ít hứng thú Chưa hứng thú 9 8em ( Nguyễn quang Vinh, Hồ Minh Danh, Nguyễn Thị Thảo Dân, Điểu Trọng Đức, Nguyễn Thị Hương Trầm, Hà Quang Nhẹn, Nguyễn Văn Nghĩa, Phạm Minh Hải) 01 (Lê Thanh Phương) Số liệu Một số chuyển biến khác trong học tập là dựa trên tình hình học tập từng ngày của học sinh mà tôi cập nhật được thông qua quá trình tích cực học tập của các em. Với số liệu thông kê như vậy, tôi nhận thấy hài lòng về khả năng học tập của các em vùng sâu, vùng xa. Nói thêm: Hiện nay, trong lớp 4.6, có một em đang tham gia học lớp bồi dưỡng để tham gia thi học sinh giỏi cấp huyện, đó là em Nguyễn Quang Vinh. V)BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Trải qua những năm thực hiện kế hoạch “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực’, tôi thấy phần nào mình đã có sự thành công nhất định với các biện pháp đã đề ra, học sinh thích đi đi học, tự tin, có mạnh dạn, chuyên cần hơn, làm bài tốt hơn và lễ phép trật tự hơn. Các em biết sống có trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và qua đây tôi muốn chia sẻ những hiệu quả đạt được, tuy chưa nhiều so với khu vực trung tâm. Nhưng nếu so với khu vực vùng xa, các em đa phần thuộc gia đình khó khăn, một buổi đến trường, một buổi phụ giúp bố mẹ , thành quả như thế là đáng ghi nhận. Bản thân tôi không ngừng học hỏi để tiếp tục tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để kế hoạch mà mình đề ra luôn đạt hiệu quả tốt nhất. Nghề dạy học là nghề sáng tạo trong những nghề sáng tạo. Ngoài sáng tạo, tôi cũng phải rèn luyện tính kiên nhẫn, luôn tìm ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tại sao ta không biến những điều không thể thành có thể bằng những phương pháp dạy học tích cực? Tất cả những điều này nếu được đáp ứng, nó sẽ khơi dậy lòng ham học ở các em, tạo cho các em một sự hứng thú thi đua trong học tập. Chúng ta luôn tạo một môi trường thuận lợi và tốt nhất cho các em để các em thấy rằng “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Càng gần gũi các em thì mình sẽ thấy được ở thế giới quanh các em có nhiều điều thú vị mà mình phải nên làm. VI) TÀI LIỆU THAM KHẢO: Hoạt động vui chơi giữa tiết học ở trường tiểu học- Nhà xuất bản Giáo dục – Tác giả: Hoàng Long- Trần Đồng Lâm- Đỗ Thuật. Giáo trình Tâm lí học đại cương- Tác giả: PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên) của Trung tâm đào tạo từ xa Huế 2003. Giáo trình Tâm lí học Tiểu học – Tác giả: Bùi Văn Huệ của Nhà sản xuất Đà Nẵng- 2004. Giới thiệu Cuộc đời và Sự nghiệp các nhà Toán học- Nhà xuất bản Trẻ- Tác giả: GS. Nguyễn Cang-Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh và PGS Nguyễn Đăng Phất- Tiến sĩ chuyên ngành Toán học Đại học Sư phạm Hà Nội. Người thực hiện Cáp Nguyện
File đính kèm:
- skkn.doc