Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Ngữ văn trong dạy học Lịch sử

Cơ sở lí luận.

Môn lịch sử là bộ môn học thuộc nặng về ghi nhớ những sự kiện năm tháng dài lê thê và xếp vào môn phụ, vì vậy ảnh hưởng không tốt vào mục tiêu đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ .

 Trong quá trình giảng dạy của giáo viên và kết quả học tập học sinh, tổ khoa học xã hội đã xác định môn lịch sử là một bộ môn khoa học có ưu thế hình thành nhân sinh quan cách mạng cho học sinh rèn tư duy sáng tạo cho các em, đặc biệt giúp cho học sinh từ hiểu biết lịch sử rút ra kinh nghiệm quý giá sẽ xây đắp cho tương lai .

Dạy học lịch sử ở trường phổ thông là một quá trình sư phạm bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của giáo viên và học sinh những hoạt động đó nhằm mục đích: Học sinh nắm vững tri thức lịch sử, phát triển tư duy lịch sử. Để việc dạy học lịch sử đi đúng mục tiêu một trong ba mặt của cải cách giáo dục là phương pháp dạy học lịch sử. Trong hệ thống phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông có rất nhiều phương pháp trong đó có phương pháp sử dụng tài liệu văn học để giảng dạy lịch sử. Dạy học là một quá trình sư phạm, phức tạp với nhiều yếu tố tham gia vào quá trình đó như: Giáo viên, học sinh, nội dung, mục tiêu học phương tiện dạy học, kiểm tra, đánh giá để giải quyết tốt những việc đó không thể làm tuỳ tiện theo ý muốn chủ quan của mỗi người. Nó xuất phát từ những đặc điểm của quá trình dạy học bộ môn của quá trình nhận thức và đặc biệt là quy luật nhận thức của học sinh trong quá trình học tập nếu không hiểu những điều đó, không lý giải những vấn đề đó trên cơ sở khách quan khoa học thì không thể hiểu phương pháp dạy học đúng đắn. Từ đó ta có thể hiểu phương pháp dạy học lịch sử là cách thức dạy học của giáo viên trong việc chỉ đạo hoạt động của học sinh nhằm đạt mục tiêu dạy học, khác với quan niệm thông thường dạy học là hoạt động của người thầy, dạy học chỉ là một hoạt động nhưng thực ra phương pháp dạy học lịch sử cũng phải khác với các phương pháp dạy học các môn khác do chính đặc trưng của bộ môn lịch sử quy định, do quá trình nhận thức của lịch sử quy định.

 

doc29 trang | Chia sẻ: Hải Thượng | Ngày: 05/05/2023 | Lượt xem: 367 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng tài liệu Ngữ văn trong dạy học Lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất tự nguyện nên khi sử dụng tài liệu văn học trong hoạt động ngoại khoá môn lịch sử cũng phải tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau và phụ thuộc vào nhiều điều kiện (về hoàn cảnh của địa phương, về nhà trường, về lớp học, về khả năng của giáo viên và học sinh, về yêu cầu chính trị xã hội của cả nước hay địa phương) nhưng với thực tế hoàn cảnh ở nhiều địa phương chúng ta hiện nay nếu giáo viên nhiệt tình vẫn có thể tổ chức các em tham gia, ngoại khoá tư liệu văn học có thể trong phạm vi 1 lớp, hay 1 nhóm nhỏ cho các em đọc sách, kể chuyện lịch sử.
Song có lẽ hiệu quả nhất dễ thực hiện trong điều kiện hiện nay là hình thức đọc sách.
Đọc sách là hình thức phổ biến, có hiệu quả nhằm cung cấp thêm kiến thức cho học sinh trong giờ nội khoá. Đây là hình thức đơn giản, dễ làm, song lại có hiệu quả cao về mặt giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tư duy cho học sinh.
Song trong công việc này cũng cần khắc phục vụ những quan niệm không đúng và cách làm chưa đúng như có những học sinh thích đọc tiểu thuyết võ hiệp lịch sử hơn tài liệu lịch sử, tài liệu gốc bị thu hút vào những tình tiết ly kỳ, hấp dẫn mà không chú ý đến kiến thức khoa học.
Nên muốn đưa tư liệu văn học vào dạy học lịch sử trong hoạt động ngoại khoá thì trước tiên giáo viên giúp học sinh lập danh mục sách cần đọc cho mỗi quá trình trong năm học.
Trong danh mục nên có phần Tối đa và phần Tối thiểu tức là những loại sách cần thiết phải đọc và những loại sách đọc thêm nếu có thời gian.
Tiếp đó, để khơi dậy tính tích cực, hứng thú, sự hiếu kỳ và lòng ham hiểu biết cái mới cho học sinh giáo viên tóm tắt sơ lược nội dung một số cuốn sách trong cách giới thiệu, đặc biệt có hiệu quả là dẫn ra một vài chi tiết, những đoạn nhỏ hấp dẫn để kích thích học sinh tiếp tục tìm đọc.
Thông thường trên lớp chỉ giới thiệu nội dung sách, thảo luận, tranh luận những vấn đề có liên quan. Đọc sách không phải để giải trí mà cần phải biết ghi chép theo mẫu sau đây:
- Tên sách.
- Tác giả.
- Thời gian đọc.
- Nội dung chủ yếu của sách theo từng phần, từng chương trình, ghi chép những câu thích thú.
- Những vấn đề rút ra sau khi đọc sách những vấn đề liên quan đến bài học vấn đề thích nhất, những thắc mắc cần giải quyết, ý định sử dụng những kiến thức đã đọc được.
Cách ghi chép như vậy là bước chuẩn bị cho việc kể chuyện nói chuyện, trao đổi thảo luận về sách.
Điều quan trọng là phải xây dựng cho học sinh nề nếp thói quen tránh tuỳ tiện khi đọc sách ở nhà mà phải có chủ đích có hiệu quả.
Tóm lại: Tài liệu văn học là phương tiện cần thiết và quan trọng đối với việc dạy học lịch sử của giáo viên và học sinh, mỗi loại tài liệu có vị trí và tác dụng nhất định, nếu được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ thì hiệu quả sư phạm của nó rất lớn. Vì vậy phương pháp sử dụng các tài liệu này phải tiến hành trên cơ sở lý luận của việc dạy học lịch sử theo yêu cầu giáo dưỡng giáo dục của bộ môn và thực tiễn của nhà trường phổ thông.
Trong các loại tài liệu văn học giáo viên chú ý hướng dẫn học sinh sử dụng các hồi ký của những chiến sỹ cách mạng lão thành, phản ánh sinh động cụ thể các sự kiện lịch sử có tác dụng cao.
Sau đây là các VD minh hoạ cụ thể của phương pháp sử dụng tư liệu văn học trong giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông.
3.5. Một số lưu ý khi khai thác và vận dụng kiến thức thơ văn vào dạy lịch sử.
 - Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu mình đã lựa chọn.
 	- Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn.
 	- Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh . 
 	- Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ ràng.
 	- Giáo viên cần làm chủ kiến thức văn học, không sa đà kể lể, cốt thấy được giá trị nổi bật để từ đó học sinh có ấn tượng, nhớ và tìm đọc.
3.6. Ví dụ minh họa.
3.6.1. Ví dụ 1: Khi dạy bài 19 - sử 6 , mục 2 : Tình hình kinh tế nước ta từ TK I đến TK VI có gì thay đổi.
 	GV sử dụng tài liệu Ngữ văn trong truyền thuyết Thánh Gióng để giải thích cho học sinh thấy: Tuy nước ta bị nhà Hán đô hộ , giữ độc quyền về sắt để hạn chế phát triển sản xuất ở châu Giao , song ở các di chỉ ,mộ cổ và đặc biệt là truyền thuyết Thánh Gióng qua chi tiết Thánh Gióng đòi sứ giả của nhà Vua sắm cho một con ngựa sắt, một cái roi sắt, một tấm áo giáp sắt để đi đánh giặc cứu nước đã chứng tỏ được nghề rèn sắt ở nước ta lúc đó vẫn phát triển .
3.6.2. Ví dụ 2: Dạy mục 2 bài 6: Văn hoá cổ đại (người Hi-Lạp và Rô-ma đã có những đóng góp gì về văn hoá)
	Đây là một mục có nội dung kiến thức phong phú nhưng rất khó dạy. Để học sinh lớp tiếp nhận được giáo viên đưa ra một số tư liệu về văn học cổ Hi- Lạp.
Giáo viên giới thiệu về 2 bộ sử thi ý nghĩa nổi tiếng: I-li-at, Ô-đi-xê, kịch thơ độc đáo của Et-xin (Ô-re-xti)
Giáo viên giới thiệu về thần thoại Hi-Lạp: đậm đà tính nhân văn, dào dạt vẻ đẹp của cuộc sống lao động và chiến đấu, ca ngợi ước mơ khát vọng chinh phục và chiến thắng thiên nhiên. Giáo viên có thể kể ngắn gọn một câu chuyện về Uy-li-xơ, A-sin, Hec-quyn. Giới thiệu về sử thi Hi-Lạp cổ đại: đây là tác phẩm văn học của nhà tơ mù Ho-me. Sử thi I-li-at (nhân vật chính là A-sin): là bản anh hùng ca chiến trận về cuộc chiến tranh bộ lạc nhờ biện pháp miêu tả khách quan mà cuộc chiến tranh thành Tơroa trở thành mẫu mực điển hình về chiến tranh cổ đại ... Sử thi Ô-đi-xê là sự tiếp nối của I-li-at: Sau khi giành thắng lợi ở Tơ-roa, quân Hi-Lạp lên chiến thuyền trở về, con đường gặp đầy trắc trở Uy-li-xơ là người long đong nhất, phiêu bạt 10 năm trời, sau bao thử thách đã trở về đoàn tụ quê hương, vợ con.
 Giáo viên nói qua về nghệ thuật sử thi đặc sắc: tính chất hoành tráng đồ sộ, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn. Sự kết hợp bút pháp hoành tráng, sôi nổi kết hợp trữ tình sâu lắng. Đó là đặc điểm của anh hùng ca Hô-me. 
Giáo viên cần làm chủ kiến thức văn học, không sa đà kể lể, cốt thấy được giá trị nổi bật để từ đó học sinh có ấn tượng, nhớ và tìm đọc.
3.6.3.Ví dụ 3 : Dạy mục 1 bài 3 - Sử 7: Cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến thời hậu kì trung đại ở châu Âu.
1. Phong trào văn hoá Phục hưng (Thế kỉ XIV – XVII)	
- Dạy mục này giáo viên cần đạt được:
- Sau khi hình thành cho học sinh khái niệm văn hoá Phục hưng? Đó là sự Phục hưng tinh thần của nền văn hoá cổ Hi lạp và Rôma sáng tạo ra nền văn hoá mới của giai cấp tư sản.
- Thời kì hậu kì Trung đại: Chế độ phong kiến châu Âu khủng hoảng, CNTB đang hình thành và chuẩn bị cho sự thắng thế của nó trên phạm vi toàn thế giới.
- Nguyên nhân dẫn đến phong trào văn hoá phục hưng: giai cấp Tư sản có thế lực về kinh tế nhưng không có địa vị xã hội nên đấu tranh giành địa vị xã hội, mở đầu bằng cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá.
- Giáo viên bổ sung tư liệu về nội dung của phong trào văn hoá Phục hưng: là đối tượng học sinh lớp 7, giáo viên cần đưa ra dẫn chứng gần gũi, dễ hiểu: 
Trước thời đại Phục hưng, phương Tây đắm chìm trong bóng đêm trung cổ kéo dài gần 1000 năm, giáo hội phong kiến cơ đốc át chế con người đặt ra chế độ áp bức bóc lột vô cùng tàn bạo, chà đạp nên quyền sống, tự do của con người. Chủ nghĩa nhân văn là tư tưởng cơ bản của thời đại Phục hưng, là yếu tố then chốt tạo lên giá trị cho các tác phẩm văn hoá nghệ thuật thời kỳ này, nó còn là sự kết tinh cao nhất tinh thần của thời đại thông qua việc hướng về cái đẹp cổ đại để bộc lộ khát vọng tự do, đòi được giải phóng khỏi những ràng buộc về mặt tinh thần và thể xác.
2 nội dung cơ bản:	 + Phê phán chế độ phong kiến và giáo hội.
	 + Đề cao giá trị con người.
3.6.4.Ví dụ 4: Lịch sử lớp 9- Phần II. Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến nay. 
3.6.4.1. Chương I: ViÖt Nam trong nh÷ng n¨m 1919-1930.
 	Giáo viên có thể vận dụng kiến thức văn học trong một số tác phẩm như: Lão Hạc - Nam Cao để làm nổi bật hình ảnh khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám .
- Tác phẩm Lão Hạc của nhà văn nam cao là truyện ngắn khá tiêu biểu của dòng văn học hiện thực, nội dung truyện phần nào phản ánh được hiện trạng xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước cách mạng tháng Tám.
+ Vì không có tiền cưới vợ cho nên con trai lão Hạc phải trốn cha nộp đơn xin vào làm trong đồn điền cao su , cảnh gà trống nuôi con, nay không thể giúp con cưới vợ , lão Hạc rất đau lòng , cuối cùng lão chọn cái chết để giải quyết sự bế tắc của bản thân mình, chính sự bóc lột tàn tệ của thực dân đã đẩy người nông dân vào cảnh khốn cùng.
a) Làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nỗi thống khổ của nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo. 
 “Cao su đi dễ, khó về
 Khi đi trai tráng, khi về bủng beo”
 (Ca dao chống Pháp)
 hoặc:
 “Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ
 Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu
 Bán thân đổi mấy đồng xu
 Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”
 (Tố Hữu)
 	b) Làm sáng tỏ: “Thuế khoá trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột chủ yếu của thực dân đế quốc nói chung và thực dân Pháp đối với nhân dân Đông Dương nói riêng”
 “ Thuế đến cả phấn son phường phố
 Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn
 Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền
 Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn
 Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt
 Thắt chặt dần như thắt chỉ xe”
 (Á tế á ca)
- Ngoài ra tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nhân dân Việt nam đầu TK XX dưới ách đô hộ của thực dân Pháp.
+ Chị Dậu vì không có tiền đóng sưu thuế cho nên chịu cảnh ức hiếp của kẻ có quyền, chị đau lòng đứt ruột bán đi đứa con đầu lòng của mình, bán hết tất cả những gì chị có để đóng tiền sưu thế chỉ mong sao chồng chị được trở về, đây cũng chính là hình ảnh thường gặp của người nông dân Việt Nam dưới ách áp bức bóc lột của chính quyền phong kiến tay sai.
3.6.4.2. Chương II : ViÖt Nam trong nh÷ng n¨m 1930-1939.
 	Làm sáng tỏ gương hy sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong vụ ám sát toàn quyền Méc-lanh:
 	Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm Hồng Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa Diện - Trung Quốc, giáo viên có thể sự dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật lịch sử nói trên:
 “Một tấm lôi đình kinh vũ trụ
 Tấm gan trung nghĩa động thần minh
 Chiếc thân đã gửi cho dòng nước
 Trang sử còn ghi mãi tính danh”
 (Trần Huy Liệu-Từ điển nhân vật lịch sử)
 hoặc:
 “Sống làm quả bom nổ
 Chết làm dòng nước xanh”
 (Tố Hữu)
 	Giáo viên nên lưu ý, sau khi đọc thơ phải cắt nghĩa cho các em hiểu một số từ, khái niệm mang tính tượng trưng như: “Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ”, “Chiếc thân đã gửi cho dòng nước”
* Bµi 19 . Phong trào C¸ch m¹ng trong nh÷ng n¨m 1930-1935.
 Sau khi trình bày cho học sinh diễn biến của phong trào Cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ - Tĩnh, giáo viên có thể sử dụng đoạn thơ sau để minh hoạ thêm:
“Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên
Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi
Không có lẽ ta ngồi chịu chết
Phải cùng nhau kiên quyết một phen
Tổng này, xã nọ kết liên
Ta hò, ta hét, thét lên thử nào”
 (Tố Hữu)
	* Bài 21 - Chương III: Cuéc vËn ®éng tiÕn tíi c¸ch m¹ng th¸ng T¸m 1945.
 	a) Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, có thể khai thác sử dụng:
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt
Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ
Người về. Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”
 (Tố Hữu)
 b) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thu nhỏ” đầy tính ưu việt, có thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“ Có mười chính sách bày ra
Một là ích nước, hai là lợi dân
Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương
Họp hành, đi lại có quyền tự do
Nông dân có ruộng, có bò,
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn.
Công nhân làm lụng gian nan
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ.
Gặp khi tai nạn bất ngờ
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho.
Thương nhân buôn bán nhỏ to
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền
Nào là những kẻ chức viên
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng
Binh lính giữ nước có công
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu
Thanh niên có trường học nhiều
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho
Đàn bà cũng được tự do
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền
Người tàn tật, kẻ lão niên
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho
Trẻ em bố mẹ khỏi lo
Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy”
 (Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr152, 153)
	*Khi dạy bài 27 - Sử 9: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc ( 1953-1954). 
 	GV sử dụng đoạn thơ trong bài thơ "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" của Tố Hữu để học sinh tham khảo khắc sâu hơn bài học: Bài thơ như một lời tuyên bố với thế giới rằng : Chúng tôi, những người Việt Nam đã chiến thắng trong cuộc đấu tranh giành độc lập , tự do cho dân tộc mình , bài học Điện Biên sẽ làm cho các dân tộc thuộc địa biết vùng lên giành quyền tự do , độc lập cho dân tộc mình.
"Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Nguyễn Văn Giáp
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta
Ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!
Kháng chiến ba ngàn ngày
Không đêm nào vui bằng đêm nay
Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực
Trên đất nước, như huân chương trên ngực
Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!
 Điện Biên vời vợi nghìn trùng 
Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta
Đêm nay bè bạn gần xa
Tin vui chắc cũng chan hòa vui chung
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm,
mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cưú pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe lên chiến trường tiếp viện.
Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin , chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống!
Máu của anh chị, của chúng ta, không uống:
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.
Lũ chúng nó phải hàng, phải chết,
Quyết trận này quét sạch Điện Biên!
Quân giặc điên
Chúng bay chui xuống đất
Chúng bay chạy đằng trời?
Trời không của chúng bay
Đạn ta rào lưới sắt!
Đất không của chúng bay
Đai thép ta thắt chặt!
Của ta, trời đất, đêm ngày
Núi kia, đồi nọ, sông này của ta!
Chúng bay chỉ một đường ra:
Một là tử địa hai là tù binh.
Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy
Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!
Nghe trưa nay, tháng năm mồng bẩy
Trên đầu bay, thác lửa hờn căm!
Trông: bốn mặt, lũy hầm sập đổ
Tướng quân bay lố nhố cờ hàng
Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng
 Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!
( Trích Hoan hô chiến sĩ Điện Biên- Tố Hữu)
- GV đọc cho học sinh nghe đoạn thơ để thấy được chiến thắng Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi 9 năm chống Pháp xâm lược , chiến thắng này được ghi vào lịch sử như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa ở Thế kỉ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi. 
4. Kết quả.	
Sau khi áp dụng phương pháp giảng dạy này ở môn học, tôi nhận thấy học sinh thật sự có hứng thú hơn. Mỗi tiết học tôi cố gắng cho học sinh tìm hiểu thêm một số câu ca dao hay thơ có cùng chủ đề tạo cho học sinh có thêm thói quen tìm tòi , vận dụng kiến thức và điều tôi mong muốn đó là giúp các em thật sự yêu thích môn học này. Sau thời gian áp dụng sáng kiến tôi đã thu được kết qủa như sau:
 - Lớp 9A.6A giảng dạy khi chưa áp dụng văn học .
 - Lớp 9B ,6B đã áp dụng văn học trong giảng dạy lịch sử .
Lớp
Sĩ số
Giỏi
Khá
Trung Bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
20
5
25
10
50
4
20
1
5
9A
22
4
18,1
10
45,5
6
27,3
2
9,1
9B
22
8
27,3
12
54,6
2
18,1
0
0
6B
21
8
28,6
11
61,9
2
9,5
0
0
Một trong cách thức dạy học để góp phần đổi mới nội dung phương pháp dạy học của tôi nhằm nâng cao chất lượng dạy - học của nhà trường tôi đã sử dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy nhằm giúp học sinh rèn luyện kỹ năng trong dạy học lịch sử như trên tôi đã khái quát trình bầy. Nhờ đó đến nay, chất lượng dạy học lịch sử của chúng tôi nâng lên rõ ràng; Chất lượng đại trà thường đạt 90 - 95% (khảo sát), năm nào tôi cũng có học sinh giỏi cấp huyện và được tuyển chọn dự thi cấp tỉnh, giáo viên giảng dạy đã đạt giải cao Hội thi Giáo viên giái cấp huyện.
	Việc sử dụng tài liệu Ngữ văn trong giảng dạy Lịch sử được nhà trường chúng tôi quan tâm và thường xuyên vận dụng, tạo cho dạy học lịch sử thực sự có hứng thú trong dạy học nhiều năm qua.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
 1. Kết luận.
 	Qua việc áp dụng tài liệu ngữ văn trong dạy học lịch sử tôi thấy để phát huy trí tuệ của học sinh và khích lệ học sinh hứng thú với môn học của mình khi giảng giáo viên phải chú ý:
 	- Phân loại và hiểu kỹ đối tượng học sinh về năng lực nhận thức và vận dụng khác nhau.
 	- Nên sử dụng những tác phẩm mà các em đã học để hiểu hơn ý nghĩa của việc vận dụng văn học .
 	- Hướng dẫn học sinh đọc và sưu tầm các loại tài liệu tham khảo là những tác phẩm văn học dân gian hay hiện đại. 
 	- Ngoài ra trong quá trình dạy học giáo viên phải luôn rèn cho học sinh cách diễn đạt nhất là khi đọc thơ . Có như vậy các em mới có hứng thú và yêu thích môn học .
	Việc vận dụng kiến thức thơ văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của bản thân tôi là một việc làm rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có nhiều hướng giảm sút, xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy bộ môn lịch sử nói riêng.
 	Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dÔ đi vào lòng người sẽ là một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng rỡ thêm lịch sử nước nhà.
	2. Khuyến nghị. 
Các cấp lãnh đạo thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn trao đổi kinh nghiệm cho giáo viên để giáo viên có cơ hội chia sẻ kinh nghiệm khi giảng dạy môn Lịch sử.
Thường xuyên tổ chức báo cáo các chuyên đề Lịch sử để rút kinh nghiệm. Bên cạnh đó cần đầu tư trang bị, xây dựng phòng học bộ môn để phục vụ cho công tác dạy học.
	Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi về việc áp dụng văn học trong giảng dạy lịch sử ở trường trung học cơ sở với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình dạy học nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giờ dạy môn lịch sử. Chắc chắn rằng đề tài này sẽ còn những hạn chế, khiếm khuyết. Tôi rất mong được sự góp ý chân thành của đồng nghiệp, bạn bè để đề tài này được hoàn thiện hơn.
 Xin chân thành cảm ơn !
TÀI LIỆU THAM KHẢO .
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 6.
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 7.
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 7.
- Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9.
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 9.
- Tài liệu về bộ sử thi I-li-at.
- Tài liệu về bộ sử thi O-di-xê.
- Tài liệu về thần thoại Hi- Lạp.
- Tài liệu về kịch thơ độc đáo của Ét-sin
- Văn bản Thánh Gióng.
- Văn bản Sơn Tinh - Thủy Tinh.
- Th¬ v¨n Chñ tÞch Hå ChÝ Minh.
- ¸ tÕ ¸ ca.
- Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr 152, 153.
- Trần Huy Liệu-Từ điển nhân vật lịch sử. 
- Ca dao chèng Ph¸p.
MỤC LỤC
Thông tin chung 	Trang 1
Tóm tắt sáng kiến 	Trang 2,3 
Mô tả sáng kiến 	Trang 4 đến 25
Kết luận 	Trang 26,27
Tài liệu tham khảo 	Trang 28.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_tai_lieu_ngu_van_trong_day_hoc.doc
Sáng Kiến Liên Quan