Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công dân bậc THCS
Chúng ta đang sống trong thời đại văn minh trí tuệ, toàn cầu hoá. Một câu hỏi lớn đặt ra cho ngành giáo dục là làm sao đào tạo được nguồn nhân lực cho đất nước có đầy đủ nhân cách, trí tuệ, sức khoẻ và kỹ năng sống đáp ứng và hoà nhập được với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trên thế giới. Do vậy mà vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở các trường phổ thông càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta chỉ rõ: “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành. Đẩy mạnh đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội; xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”.
Chỉ thị về việc phát động phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 nêu rõ về nội dung: "Dạy và học có hiệu quả, thầy cô giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, giúp các em tự tin trong học tập.", "rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc và sinh hoạt theo nhóm", " tổ chức các trò chơi dân gian, sân khấu học đường và các hoạt động vui chơi, giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi học sinh."
Để hưởng ứng phong trào thi đua đó, nhiều phương pháp, biện pháp mới liên tục được đưa ra dù có khác nhau nhưng đều thống nhất khẳng định vai trò của người học không phải là những “bình chứa thụ động” mà là những chủ thể nhận thức tích cực trong quá trình học tập.
Riêng đối với bộ môn Giáo dục công dân, hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm đã và đang được triển khai rộng rãi trong các nhà trường THCS. Đặc biệt là việc ứng dụng bản đồ tư duy cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác như học nhóm, công nghệ thông tin. đã đem lại rất nhiều lợi ích và thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên việc môn Giáo dục công dân cũng gặp nhiều khó khăn. Dung lượng kiến thức mỗi tiết rất dài và có phần khô khan.
c tiềm ẩn trong chúng ta, đưa chúng ta lên một đẳng cấp mới, đẳng cấp của một tài năng thực thụ hay thậm chí của một thiên tài. 2. Vận dụng BĐTD trong quá trình dạy học Giáo dục công dân: 2.1. Giáo viên sử dụng BĐTD để hỗ trợ quá trình dạy học: 2.1.1. Dùng BĐTD để kiểm tra bài cũ: - Dạng 1: Có thể lập bản đồ tư duy dạng điền vào ô trống, điền khuyết, lắp ráp hoặc cho HS sắp xếp thứ tự các ý để kiểm tra kiến thức cũ của HS .điền và - Dạng 2: GV có thể biến hóa điền vào ô trống thành các nhánh hoa, các bông hoa, bong bóng, các hộp bí mậtvới đầy sắc màu để kiểm tra nhưng cũng chính là giúp các em khắc họa các hình ảnh này vào tâm trí, ghi nhớ kiến thức cũ lâu hơn.DDạng 1: - Có thể lậg, 2.1.2. Dùng BĐTD để dạy bài mới: Sử dụng bản đồ tư duy là một gợi ý cho cách trình bày. Giáo viên thay vì gạch chân đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng BĐTD để thể hiện một phần hoặc toàn bộ nội dung bài học một cách rất trực quan. Môn GDCD hầu như bài nào cũng có phần khái niệm, phần biểu hiện, ý nghĩa, rèn luyện của HS. GV có thể sử dụng BĐTD để dạy một phần, hai phần hoặc ba phần của các nội dung ấy tùy theo ý thích và nội dung của bài. Ví dụ: Dạy phần I.Đặt vấn đề ( Khám khá) GDCD 9 bài “Chí công vô tư” Ví dụ: GDCD 9 bài “Chí công vô tư” bằng MindMap để dạy một phần khái niệm “ Thế nào là chí công vô tư” . Sơ đồ minh hoạ Ví dụ: GDCD 7 bài “ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Gv có thể sử dụng bản đồ tư duy dưới đây khi dạy phần 1. Thông tin, sự kiện. Nhằm giúp học sinh ghi nhớ nhanh, không lẫn lộn về sự phân cấp, phân công của Bộ máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Ví dụ: Trước khi học bài mới “Giản dị” (môn Giáo dục công dân 6) GV có thể gợi ý cho HS vẽ BĐTD bằng từ khóa “giản dị” sau đó cho các em thảo luận để vẽ tiếp các nhánh và bổ sung dần các ý nhỏ, dẫn đến việc các em tự chiếm lĩnh kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng lại rất hiệu quả đồng thời kích thích hứng thú học tập của HS. Ví dụ: Bản đồ tư duy khi dạy bài “ Mục đích học tập của học sinh” (GDCD 6) Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ, dựa vào nội dung trong sách giáo khoa để hoàn thành bài tập. Cuối cùng, giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết quả có thể như sau: 2.1.3. Dùng BĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương, phần: Sau khi cho HS đọc truyện đọc trong sách giáo khoa hoặc xem một đoạn phim, tư liệu, tranh ảnh ( tùy theo nội dung mỗi bài); GV có thể dẫn dắt HS khám phá nội dung bằng một BĐTD giúp các em dễ khám phá ra vấn đề hơn, khai thác nội dung một cách nhanh chóng và dễ hiểu hơn. Ví dụ: GDCD 9, BÀI “ Vi phạm pháp luật và tách nhiệm pháp lí của công dân”. Vẽ trên IMindMap Đặc biệt, sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ BĐTD. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ khi dạy bài “Lễ độ” trong môn Giáo dục công dân lớp 6, giáo viên tổ chức cho học sinh lập BĐTD theo nhóm hoặc cá nhân, gợi ý cho các em tìm các biểu hiện lễ độ, các biểu hiện thiếu lễ độ, tìm trong thực tế, sách báo về các gương lễ độ, kế hoạch rèn luyện của bản thân,... để các em lập BĐTD với từ khóa “ Lễ độ” ở trung tâm. Tiếp theo cho các nhóm học sinh trình bày, thuyết minh về BĐTD của mình, cả lớp thảo luận, góp ý kiến, giáo viên kết luận dẫn đến kiến thức mới. ccủa bản thân,để các em lập BĐTD với từ khóa “ lễ độ” ởnóa “ lễ đ BĐTD với từ khóa “ Lễ độ” do học sinh lớp 6 vẽ. - BĐTD liên kết toàn bài, học kỳ : với BĐTD, giáo viên có thể yêu cầu HS nhắc lại toàn bộ nội dung chính trong bài, giúp các em khắc họa kiến thức đã học một cách vừa logic, vừa dễ nhớ nhất. Ví dụ: tiết ôn tập HKI, lớp 6 sau đây. - Áp dụng BĐTD vào các trò chơi trong tiết học: Để tạo không khí vui tươi, khích thích tính tích cực của các em khi học tập căng thẳng là một năng khiếu không thể thiếu của người thầy. Tùy theo nội dung của mỗi bài GV có thể tổ chức cho HS vui chơi với rất nhiều trò chơi sinh động khác nhau; Tuy nhiên, vui chơi mà học bằng BĐTD thì chúng ta có thể tổ chức cho HS một số hình thức chơi như: - Tổ chức trò chơi “ Ai nhanh hơn” Tổ chức “ Nhóm nào đoàn kết thế” Trò chơi “ Hái hoa dân chủ” “Hát cho nhau nghe” “ Ai khéo tay hơn” Ví dụ: Trò chơi “ Ai nhanh hơn”, GV tổ chức cho HS vẽ BĐTD phần nội dung của bài, ai nhanh hơn, chính xác hơn là thắng cuộc như hình sau: Qua việc củng cố nội dung bài học theo hình thức này học sinh sẽ nhớ lâu, nhớ kỹ nội dung bài học và phát huy được tính sáng tạo, tư duy của mình, giúp các em yêu thích môn Giáo dục công dân hơn. 2.1.4.Sử dụng BĐTD để ra bài tập về nhà: BĐTD áp dụng vào phần này là ý nghĩa nhất, bài nào giáo viên cũng có thể sử dụng được. GV có thể thiết kế sẵn hoặc cho học sinh vẽ để tổng hợp, khắc họa kiến thức. Các dạng BĐTD GV sử dụng có thể tổ chức dưới dạng trò chơi, ô chữ bí mật, điền vào ô trống như phần kiểm tra bài cũ để tăng phần sinh động cho tiết dạy . 3. Học sinh học tập độc lập, sử dụng BĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic. - Học sinh tự có thể sử dụng BĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ BĐTD trên giấy, bìa hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. - Học sinh trực tiếp làm viêc với máy tính, sử dụng phần mềm Mindmap, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập. CHƯƠNG III MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC SAU KHI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI. I. Những ưu điểm của kinh nghiệm ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân. Sơ đồ minh hoạ Nhìn vào sơ đồ trên chúng ta có thể thấy được ưu điểm vô cùng to lớn của bản đồ tư duy đối với cuộc sống của con người nói chung và phương pháp dạy môn Giáo dục công dân nói riêng. Qua một thời gian nghiên cứu, tìm hiểu và ứng dụng bản đồ tư duy kết hợp với việc trao đổi thảo luận, rút kinh nghiệm trong hội đồng, tổ, nhóm chuyên môn; dưới sự chỉ đạo linh hoạt của các đồng chí trong ban giám hiệu nhà trường ( Đồng chí Phạm Thị Thu Hoài, Nguyễn Thị Phương Thúy, đồng chí Nguyễn Văn Hiện ), tôi nhận thấy việc sử dụng bản đồ tư duy có nhiều ưu điểm đối với cả người dạy và người học. 1. BĐTD đối với học sinh: 1.1.BĐTD giúp HS học được phương pháp học : Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế ở trường phổ thông cho thấy, một số học sinh có xu hướng không thích học hoặc ngại học môn Giáo dục công dân do đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài đó, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước vào bài học sau. Do đó, việc sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học, sẽ giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức tổng hợp về bài học .Với phương pháp bản đồ tư duy trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học- trung tâm bản đồ. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên bản đồ. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, bản đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài tức tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào bản đồ là có thể tái hiện, thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. Đồng thời học sinh cũng có thể khẳng định được toàn bộ dung lượng kiến thức của bài, xác định ý chính, ý phụ và lên kế hoạch học tập hiệu quả. Sau mỗi giờ học, khi cần củng cố kiến thức học sinh chỉ cần nhìn vào bản đồ tư duy có thể tái hiện được 80%-90% kiến thức bài học. Đến khi ôn thi học sinh không phải mất một lượng lớn thời gian để đọc lại kiến thức như cách học truyền thống mà chỉ cần quan sát lại sơ đồ tổng thể vẫn có thể tái hiện nội dung bài học một cách cụ thể, chi tiết. Như thế học sinh vừa nâng cao được kết quả học tập vừa tiết kiệm được thời gian. Ngoài ra, BĐTD còn dần dần hình thành cách ghi chép hiệu quả cho học sinh. Các em biết chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp bố cục để ghi thông tin cần thiết nhất và hợp lôgic. Sử dụng thành thạo BĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. 1.2. BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực: Việc sử dụng BĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh tự vẽ BĐTD theo ngôn ngữ của mình, theo cách tư duy của mình có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và BĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. Điều đó sẽ gây hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học GDCD vốn “ đã, đang là buồn ngủ đối với học sinh hiện nay”. 2.BĐTD đối với giáo viên : Đối với với giáo viên, trong quá trình dạy Giáo dục công dân, sử dụng BĐTD để củng cố kiến thức cho học sinh sau mỗi phần của bài học, sau mỗi bài học hay sau mỗi chương học một cách rõ ràng, khoa học vì sử dụng phần mềm BĐTD như một hình ảnh trực quan cho học sinh dễ theo dõi những kiến thức cơ bản, trọng tâm. Đặc biệt trong những giờ dạy sử dụng trình chiếu, sử dụng phần mềm BĐTD giáo viên có điều kiện truyền đạt kiến thức một cách sâu rộng hơn so với những giờ dạy truyền thống trước kia. Nhờ BĐTD, ghi chú bài giảng của giáo viên trở nên linh hoạt, giúp tiết kiệm thời gian và công sức, có điều kiện để dạy học sáng tạo. Sử dụng bản đồ tư duy không phải lúc nào cũng phải gắn với việc sử dụng máy trình chiếu, giáo viên và học sinh có thể tự vẽ trên nhiều chất liệu khác nhau rất dễ kiếm. Với những bài học giáo viên thiết kế theo kiểu vừa khám phá kiến thức vừa hoàn thiện bản đồ tư duy trên bảng là một thiết kế rất thú vị đối với cả thày và trò, vừa sinh động, vừa ngắn gọn dễ hiểu, vừa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh trong việc chiếm lĩnh tri thức.. Khác với kiểu soạn bài trước đây, trình bày nội dung tuần tự theo kiểu khô cứng, việc sử dụng BĐTD giúp bài giảng không những biểu thị sự kiện (nội dung) mà còn cho thấy mối liên hệ giữa các sự kiện (nội dung) ấy, từ đó giúp học sinh hiểu sâu hơn chủ đề, nắm bắt kiến thức nhanh hơn, tránh được kiểu truyền thụ kiến thức đọc - chép, học vẹt... Tuy nhiên trong giảng dạy môn Giáo dục công dân không có phương pháp, biện pháp nào là độc tôn, là vạn năng cả. Người dạy cần kết hợp các phương pháp, biện pháp một cách sinh động để gây hứng thú cho HS và nâng cao hiệu quả giờ dạy. II. Kết quả cụ thể đạt được: Sau một năm ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân nói riêng, tôi thấy thực tế kết quả kiểm tra cuối năm học 2013 – 2014 theo đề của trường cho thấy chất lượng các môn văn hóa của nhà trường nói chung và môn Giáo dục công dân nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Để nắm bắt được hiệu quả sử dụng BĐTD trong dạy và học Giáo dục công dân với các giải pháp nêu trên tôi đã tiến hành thử nghiệm qua khảo sát thực tế trực tiếp kết quả đạt được như sau : Bảng thống kê đánh giá việc học môn Giáo dục công dân học sinh toàn trường năm học 2013-2014. Thời gian Sĩ số Không thích học Tỉ lệ Thích học Tỉ lệ Đầu năm 228 91 39,9 137 60,1% Cuối năm 226 20 8,8% 206 91,2% Ghi chú: 2 HS nghỉ học chữa bệnh. Qua kết quả đạt được đó cho thấy rằng các em đã yêu thích bộ môn Giáo dục công dân, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn Giáo dục công dân và thành thạo trong việc lập và sử dụng bản đồ tư duy trong học tập môn Giáo dục công dân. C. PHẦN KẾT LUẬN I.BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Với đề tài : “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công dân bậc THCS”, bản thân tôi đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Đối với giáo viên: - Bản thân mỗi giáo viên không ngừng nâng cao tay nghề về chuyên môn nghiệp vụ và cả về sự sáng tạo, nghệ thuật hội họa. - Phải thường xuyên tổ chức dạy học theo phương pháp sử dụng BĐTD để phát triển hết khả năng sáng tạo, thẩm mỹ, khả năng tư duy của học sinh. - Cần phải hướng dẫn kỹ cho học sinh chuẩn bị nội dung bài học ở nhà thông qua BĐTD, sau đó kiểm tra sự chuẩn bị của các em và quan tâm các nhóm, các học sinh yếu kém, tuyên dương, động viên những nhóm học sinh làm tốt nhiệm vụ mà giáo viên giao để khuyến khích các em phát huy tạo niềm say mê cho các em yêu thích môn học. - Tuy nhiên, không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng BĐTD và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. Giáo viên cần có sự linh hoạt trong sử dụng BĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng học sinh và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. - Khi thiết lập và hướng dẫn HS thiết lập bản đồ tư duy, không cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc, đặc biệt tránh dùng những màu gần giống nhau sẽ gây rối mắt dẫn dến rối tư duy, khó nhớ. - Nên vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại, cuốn hút. - Cần tìm từ khóa ngắn gọn và chính xác vì nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới của học sinh. Não người học sẽ được kích thích làm việc để nối kết thông tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao khả năng ghi nhớ. Nếu trên mỗi nhánh ta viết đầy đủ cả câu hoặc viết dài dòng thì như vậy sẽ dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng của bộ não. - Nên thường xuyên sử dụng sơ đồ tư duy khi cho học sinh làm việc nhóm và hệ thống kiến thức đã học , đặc biệt là trong các tiết ôn tập trên lớp và tự ôn tập của học sinh. 2. Đối với học sinh: - Luôn có niềm đam mê, sự hứng thú học tập bộ môn Giáo dục công dân - Thường xuyên chuẩn bị bài ở nhà theo yêu cầu của giáo viên - Lúc nào cũng có sẵn giấy A4, bút chì, bút màu, tẩy, bảng phụ trong cặp. - Phải rèn luyện sự sáng tạo, óc tư duy của mình trong cách học BĐTD. - Chủ động sáng tạo bản đồ tư duy của mình không nên phụ thuộc vào mẫu hoặc cách vẽ của người khác. II. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐEM LẠI: Việc sử dụng BĐTD giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động. Sử dụng thành thạo và hiệu quả BĐTD trong dạy học sẽ mang lại nhiều kết quả tốt và đáng khích lệ trong phương thức học tập của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong bài giảng, và quan trọng nhất sẽ giúp học sinh nắm được kiến thức thông qua một “bản đồ” thể hiện các liên kết chặt chẽ của tri thức. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng BĐTD để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinhh trung bình đã biết dùng BĐTD để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Giáo dục công dân, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng BĐTD để ghi chép bài nhanh, hiệu quả. III. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG: Kinh nghiệm “ Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Giáo dục công bậc THCS” nêu ở trên đã được tôi trình bày thành chuyên đề phổ biến trong tổ chuyên môn, nhóm chuyên môn của trường THCS Lê Quý Đôn. Bản thân tôi và đồng nghiệp đã vận dụng trong các giờ dạy môn Giáo dục công dân đem lại kết quả cao. Vì vậy mà theo tôi, kinh nghiệm này có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho giáo viên dạy và các đối tượng học sinh học môn Giáo dục công dân ở các trường THCS trong huyện Yên Khánh và tỉnh Ninh Bình . IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUÂT: Nghiên cứu và tìm hiểu đề tài này, tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau: - Để việc ứng dụng BĐTD phát huy hiệu quả lâu dài, bền vững, đòi hỏi người giáo viên phải nắm chắc các nội dung dạy học, các kỹ năng cần trang bị cho học sinh thấy được các ưu, nhược điểm của BĐTD để phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu.Tích cực dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm, tổ chức sinh hoạt chuyên môn đúng kế hoạch; Bên cạnh sự nỗ lực của giáo viên trong quá trình dạy học, nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên có nhiều tài liệu, phương tiện phục vụ công tác đổi mới phương pháp dạy học trong đó có BĐTD . Khuyến khích các tổ chuyên môn tổ chức thao giảng các tiết dạy ứng dụng BĐTD tìm ra nhiều cách dạy hay và sáng kiến mới. Đánh giá, xếp loại giáo viên đúng năng lực, trình độ và đề xuất khen thưởng kịp thời những giáo viên tích cực trong đổi mới phương pháp dạy học. Nói tóm lại, BĐTD có rất nhiều ưu điểm nhất là trong thời kì chúng ta đang đổi mới phương pháp dạy học. Nhận xét về nỗ lực đổi mới nghiên cứu, tổ chức dạy và học của ngành giáo dục trong nhiều năm gần đây, một lãnh đạo Quốc hội và Hội đồng khoa học của Quốc hội đã nói: “Tôi đánh giá cao nỗ lực của nhiều cán bộ nghiên cứu, GV trong việc tiếp cận, chủ động nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp tư duy hiện đại trên thế giới vào thực tiễn nước ta. Điều này cho thấy con người Việt Nam, trí tuệ Việt Nam rất đáng khâm phục, hoàn toàn có thể kế thừa, tiếp thu, làm chủ các tri thức mới và tinh hoa của nhân loại. Điều cần làm phía trước là làm sao nhân rộng các phương pháp mới, để nó không chỉ là các sản phẩm mang tính bí quyết của một vài cá nhân mà phải góp phần xây dựng và hình thành các thế hệ học trò - con người mới cho đất nước”. Vâng, quả đúng như thế, nếu mỗi giáo viên và học sinh tích cực nghiên cứu tìm hiểu và vận dụng các phương pháp dạy học trong đó biết sử dụng BĐTD một cách linh hoạt, phù hợp trong từng bài dạy, bài học sẽ đạt hiệu quả cao trong quá trình truyền thụ và tiếp nhận tri thức. Và BĐTD sẽ là đòn bẩy góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện nền giáo dục, giúp học sinh tích cực chủ động và có tư duy tốt hơn. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi mới chỉ là bước đầu, còn mang nặng tính lý thuyết, không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những lời đóng góp quý báu của các thầy, các cô và các bạn đồng nghiệp . Xin trân trọng cảm ơn. Yên Khánh, ngày 10 tháng 5 năm 2015 Ý kiến nhận xét của HĐKH trường Người viết Phạm Thị The TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Đình Châu, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần dạy học tích cực và hỗ trợ công tác quản lý nhà trường- tài liệu tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học. 2. Trần Đình Châu, Đặng Thị Thu Thủy, Sử dụng bản đồ tư duy góp phần TCH HĐ học tập của HS, Tạp chí Khoa học giáo dục, số chuyên đề TBDH năm 2009. 3. Tony Buzan - Bản đồ Tư duy trong công việc – NXB Lao động – Xã hội. 4. Stella Cottrell (2003), The study skills handbook (2nd edition), PalGraveMacmillian. 5. www.mind-map.com (trang web chính thức của Tony Buzan). 6. 7. Tài liệu tập huấn chuyên môn do Bộ giáo dục, Sở giáo dục, Phòng giáo dục đào tạo tổ chức. 8. Tham khảo nhóm Giáo dục công dân trường THCS Lê Quý Đôn, Yên Khánh, Ninh Bình. 9. Thiết kế bài giảng, SGV GDCD 6,7,8,9. 10. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS. 11. Nguyễn Kỳ, “Phương pháp lấy người học làm trung tâm”; Nhà xuất bản giáo dục.
File đính kèm:
- SANG KIEN KINH NGHIEM CUA PHẠM THE - LE QUY DON.doc