Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 3 theo bộ sách Chân trời sáng tạo
Môn Toán đóng vai trò quan trọng, không chỉ cung cấp kiến thức toán học mà nó còn giúp học sinh phát triển trí thông minh, tư duy sáng tạo, kích thích óc tò mò, tự khám phá và rèn luyện một phong cách làm việc khoa học. Yêu cầu đó rất cần thiết cho mọi người, góp phần giáo dục ý chí, đức tính chịu khó, nhẫn nại, cần cù trong học tập để trẻ tiếp tục học ở bậc Trung học hay cho công việc lao động sau này. Trong quá trình dạy - học Toán thì dạy giải toán là hoạt động được chú ý nhiều nhất vì với Tiểu học nó chiếm khoảng thời gian khá lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình. Thông qua việc giải toán giúp học sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố các kiến thức và kĩ năng đã học đồng thời rèn luyện cho học sinh tư duy logic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học trong đời sống. Có thể nói nó góp phần hình thành nhịp cầu nối toán học trong nhà trường và ứng dụng toán học trong thực tiễn. Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng. Nội dung giải toán có lời văn ở lớp 3 là giải các bài toán có hai bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản. Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học. Cũng như các lớp trước yêu cầu của dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 chủ yếu là rèn kĩ năng về “phương pháp” giải toán ( cách đặt vấn đề, tìm hiểu đề, giải quyết vấn đề); rèn khả năng “diễn đạt”; Trình bày vấn đề bằng lời nói, bằng chữ viết cho học sinh.
MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU1 I. Lí do chọn đề tài 1 II. Mục đích nghiên cứu2 III. Đối tượng nghiên cứu2 IV. Phương pháp nghiên cứu2 B. NỘI DUNG 3 I. Cơ sở lý luận3 II. Thực trạng của vấn đề dạy- học giải các bài toán giải ở lớp 3 3 1. Đặc điểm tình hình 3 2. Thực trạng dạy- học các bài toán giải3 3. Kết quả của thực trạng trên 4 4. Giải pháp và biện pháp thực hiện6 5. Kiểm nghiệm 17 C- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 19 I. Kết luận 19 II. KIẾN NGHỊ 20 II. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một số sai lầm của học sinh lớp 3 thường mắc khi giải các bài toán có lời văn. Từ đó, tìm ra biện pháp giúp bản thân rút kinh nghiệm vận dụng linh hoạt các phương pháp, các hình thức dạy học. Từ dó, áp dụng các kỹ năng dạy học sinh giải toán sao cho phù hợp với từng bài dạy, với từng đối tượng học sinh để đạt kết quả cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy- học Toán . III. Đối tượng nghiên cứu Lớp 3 năm học .......... trường IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Nghiên cứu sách giáo khoa Toán lớp 3, Vở bài tập Toán lớp 3 sách Chân Trời Sáng Tạo - Nghiên cứu tài liệu sách giáo viên Toán lớp 3 và một số phương pháp dạy học toán ở tiểu học và các tài liệu khác. 2. Phương pháp quan sát 3. Phương pháp điều tra: thực hiện phỏng vấn điều tra, dự giờ để tìm hiểu... 4. Phương pháp so sánh : so sánh, đối chiếu kết quả của lớp thực nghiệm với lớp khác cùng khối. 5. Phương pháp thống kê toán học: thống kê số liệu, phân tích kết quả điều tra thực nghiêm. 6. Phương pháp thực nghiệm... B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận Trong quá trình dạy học hiện nay, ngoài công tác dạy – học theo đúng mục tiêu, yêu cầu và kỹ năng cần đạt của môn học, thì việc rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 cần được chú trọng và quan tâm một cách chặt chẽ. Ở lớp 3 2 | 21 Một số học sinh chưa đọc kĩ đề bài, khả năng phân tích để xác định dạng toán chưa đúng, thiếu suy nghĩ về dữ kiện và điều kiện đưa ra trong bài toán, các em thường làm bài theo mẫu nên rất dễ quên. 3. Kết quả của thực trạng trên Thực trạng trên cho thấy chất lượng giảng dạy các bài toán giải cho học sinh còn nhiều hạn chế. Nhiều học sinh không nắm được cách giải và giải toán còn sai nhiều. Nhìn chung trong những năm học gần đây chất lượng môn toán nói chung và chất lượng môn Toán lớp 3 nói riêng còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu dạy học đặt ra. Là một giáo viên nhiều năm được nhà trường phân công giảng dạy ở lớp 3, điều đó khiến tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp học sinh giải toán có lời văn được tốt hơn.Vì thế, tôi đã tiến hành khảo sát kĩ năng giải toán của học sinh lớp 3A (lớp thực nghiệm do tôi phụ trách) và lớp 3B do cô .. phụ trách (đây là hai lớp có chất lượng tương đối đồng đều.) với đề kiểm tra như sau: Đề bài: (thời gian 40 phút) Bài 1: Con hái được 7 quả cam, mẹ hái được gấp con 6 lần.Hỏi mẹ hái được bao nhiêu quả cam ? Bài 2: Nhà Lan nuôi 24 con gà, mẹ đã bán đi 1 số gà đó. Hỏi nhà Lan còn lại bao 3 nhiêu con gà? Bài 3: Mẹ Hoa mua 4 gói kẹo và 1 gói bánh, mỗi gói kẹo cân nặng 180g và gói bánh cân nặng 355g. Hỏi mẹ Hoa đã mua tất cả bao nhiêu gam kẹo và bánh ? Bài 4: Một công ti dự định xây 45 ngôi nhà, đến nay đã xây được 1 số nhà đó. 5 Hỏi công ti còn phải xây tiếp bao nhiêu ngôi nhà nữa ? Cách đánh giá: Toàn bài cho 10 điểm. Bài 1: ( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm. Bài 2:( 2.5 điểm) Đặt lời giải và làm phép tính đúng cho 2 điểm, đáp số đúng cho 0,5 điểm 4 | 21 4. Giải pháp và biện pháp thực hiện 4.1. Giải pháp giúp HS sữa chữa những sai lầm của học sinh trong quá trình làm các bài toán giải Sai lầm của học sinh khi học toán là một hiện tượng phổ biến, cho đến nay trước những sai lầm của học sinh giáo viên thường cho rằng học sinh ít chú ý nghe giảng ở trên lớp, không chịu khó làm bài tập nên không nắm được kiến thức hoặc kiến thức không vững, không chắc ... mà ít người để tâm theo dõi, nghiên cứu, phân tích một cách cụ thể, có hệ thống, các nguyên nhân sai lầm về kiến thức, suy luận trong khi học toán có phần thuộc về tinh thần, thái độ học tập của học sinh nhưng không phải trường hợp nào cũng như vậy. Trong dạy học để ngăn ngừa hoặc hạn chế học sinh mắc sai lầm ta cần phải nghiên cứu nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó. “Bài toán giải bằng hai bước tính ở lớp 3” là một loại toán cần nhiều đến tư duy, bởi vì đề bài được nêu ra dưới hình thức có lời văn hoàn chỉnh. Vì vậy, để giải được học sinh cần phải tìm được sự liên quan giữa các đại lượng, các yếu tố đã học và yếu tố cần tìm của bài toán một cách logic. Nói chung, nội dung được đưa ra trong đề toán đều gắn liền với thực tế hoạt động của các sự vật, các yếu tố cuộc sống để học sinh dễ liên hệ, nó mang tính chất đa dạng. Như vậy, đây là loại toán khó đối với học sinh ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em chưa tiếp xúc nhiều với cuộc sống. Bản chất các em còn rất hồn nhiên, ngây thơ, vì vậy, sự chú ý của học sinh tiểu học hướng ra bên ngoài chứ chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy, vào trí nhớ lôgic. Trí nhớ các em còn nhớ máy móc, nhớ dễ dàng đối với các hiện tượng, hình ảnh cụ thể hơn là các câu chữ trừu tượng, khô khan. Khi suy luận, các luận cứ logic các em còn gắn nhiều với thực tế. Bởi vậy dạy các nội dung toán giải sao cho các em hứng thú và có được kỹ năng làm bài tập là việc làm cần nhiều công sức của người thầy. Việc rèn luyện, hình thành, củng cố kỹ năng giải toán của học sinh ở gần như chưa có. Chính vì vậy học sinh không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm. Qua thực tế giảng dạy và khảo sát học sinh ở một số lớp 6 | 21 Cả hai khu vườn có số thùng ông là: 71 + 55 = 126 (thùng ) Đáp số: 126 thùng ong 7 học sinh mắc sai lầm trên đều do các em chưa đọc kỹ đề bài toán, một dữ kiện quan trọng của bài toán “Ông ngoại có 71 thùng, cậu Út ít hơn 16 thùng" Đây chỉ là một trong những ví dụ học sinh mắc sai lầm loại này. b- Khi giải bài toán học sinh chưa đọc kĩ đề bài, chưa hiểu đúng các dữ kiện của bài toán giữa cái đã cho và cái cần tìm Ví dụ 2: Bài tập 4 - trang 49 toán 3 bộ sách Chân trời sáng tạo tập 1 Trên mỗi cái bàn người ta để 2 lọ hoa, mỗi lọ hoa có 5 cành hoa. Hỏi 4 cái bàn như thế có tất cả bao nhiêu cành hoa? Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng. Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 3A năm học ..........chỉ có một số ít học sinh giải bài toán này theo cách giải sau: Số lọ hoa có trên 4 bàn là: 4 2 = 8 (lọ) Số cành hoa có trên tất cả các lọ là: 8 x 5 = 40 (cành hoa) Đáp số: 40 cành hoa Một số học sinh khác do quen cách tính chỉ có một phép tính nên không viết được trọn vẹn lời giải. Khi đã làm bài toán giải bằng một phép tính sang bài toán giải bằng hai phép tính có em áp dụng máy móc cách tính của bài toán giải bằng một phép tính c- Học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản Ví dụ 3: Bài 3 - trang 17 toán 3 bộ sách Chân trời sáng tạo tập 2 8 | 21 Tôi tiến hành kiểm tra trên lớp 3A năm học .........., nhưng chỉ có 16 em có lời giải và kết quả đúng. Số học sinh còn lại đặt lời giải và phép tính như sau: Bài giải: Số tiền mẹ mua 1kg cà chua là : 50000 - 17000 = 33000 (đồng) Số tiền mua 2kg cà chua là : 33000-17000 = 17000 (đồng) Đáp số : 17000 đồng Tóm lại: Trên đây là những khó khăn sai lầm cơ bản học sinh thường gặp khi giải bài toán có lời văn. Trong quá trình giải, học sinh dễ bộc lộ những sai lầm nhưng không phải rành mạch từng loại mà có những sai lầm đan xen bao hàm lẫn nhau. Người giáo viên phải nắm chắc được những khó khăn cơ bản, làm cơ sở tìm hiểu những khó khăn sai lầm cụ thể để giúp đỡ học sinh sửa chữa. Sau đây là khảo sát trên lớp 3A và lớp 3B ở trường tôi trong năm học đã nêu ở trên. Kiểm tra những bài tập sau ở vở Bài tập Toán lớp 3: Lớp 3A, lớp 3B đều 3 bài Bài - trang Bài - trang Bài - trang Kết quả thu được như sau: Chất lượng Hoàn thành Chưa HT HT ở mức 1 HT ở mức 2 HT ở mức 3 ứng với Lớp ( Điểm 9-10) ( Điểm 7-8) ( Điểm 5-6) điểm dưới 5 10 | 21 Là khâu đầu tiên trong quá trình chuẩn bị dạy - giải của người giáo viên. Chỉ thông qua giải toán, giáo viên mới có thể dự kiến được những khó khăn sai lầm mà học sinh thường mắc phải. Khi giải bài toán bằng nhiều cách giáo viên bao quát được tất cả hướng giải của học sinh, phát hiện nhiều em có hướng giải tốt. Đồng thời hướng dẫn các em giải theo nhiều cách để kích thích lòng say mê toán học ở trẻ. * Dự kiến sai lầm Đây là một công việc không thể thiếu được trong quá trình dạy toán. Từ dự kiến những sai lầm của học sinh giáo viên đặt ra phương án tốt giải quyết cho từng bài toán. Một số khó khăn sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải toán là: - Không nắm được các bước giải - Tính toán sai. - Đổi sai đơn vị đo. - Vận dụng sai công thức Xuất phát từ định hướng trên và từ những ngại ngùng khi gặp toán giải của học sinh, tôi đã hướng dẫn học sinh qua từng bước để các em thấy giải toán không còn là mối lo ngại khi làm bài.Khi gặp bài toán giải tôi thường hướng dẫn các em đi theo các bước sau đây: * Tìm hiểu đề toán Hướng dẫn học sinh xác định được: - Bài toán cho ta biết những gì ? - Bài toán yêu cầu tìm gì ? - Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái chưa biết là gì ? - Phân tích điều phải tìm để tìm hướng đi đến đích của bài. * Hướng dẫn giải Đây là công việc chủ yếu trong giờ dạy giải toán, để việc đó đạt hiệu quả rõ ràng người giáo viên phải thực hiện tốt những khâu trên. 12 | 21
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_giai_toan_co_loi_van_cho_h.docx