Sáng kiến kinh nghiệm Dạy Tập làm văn Lớp 3 đáp ứng yêu cầu đổi mới

Thực trạng:

* Thuận lợi

+ Đối với giáo viên

- Giáo viên tiểu học đã nắm được yêu cầu việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản, việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.

- Sự chỉ đạo chuyên môn của Phòng giáo dục, trường, tổ chuyên môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.

- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành công khi dạy Tập làm văn.

- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo. giáo viên tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.

+ Đối với học sinh

- Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học

- Môn tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.

- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.

* Khó khăn:

+ Đối với giáo viên:

Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú, cần phải có vốn sống thực tế, người giáo viên luôn biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ quả không dễ.

+ Đối với học sinh:

- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.

- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học.

- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.

- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.

 

doc12 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy Tập làm văn Lớp 3 đáp ứng yêu cầu đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người xung quanh. 
Cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu - Tuần 8 cũng cung cấp cho học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng qua hệ thống các bài tập. Cụ thể:
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau 
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Những người 
trong cộng đồng
Nhóm 2: Thái độ hoạt động 
trong cộng đồng
Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, đồng hương
Cộng tác, đồng tâm
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng thể hiện trong các thành ngữ đó: 
Chung lưng đấu cật. 
(Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công việc có nhiều khó khăn trở ngại) 
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. 
(Phê pháp thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khác lúc khó khăn)
Ăn ở như bát nước đầy. 
(Ca ngợi con người ăn ở, cư xử với mọi ngưòi có tình có nghĩa, trước sau không thay đổi) 
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong cộng đồng khi nói - viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già: 
Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp: 
- Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện. ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn. 
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em. 
Tương tự, ở phân môn tập viết - tuần 8, các em được làm quen với các thành ngữ, tục ngữ về chủ để cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng. 
"Khôn ngoan đá đáp người ngoài 
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau".
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, luyện từ và câu, Chính tả, tập viết xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết "Kể về người hàng xóm mà em quý mến" (TLV 3 - tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh. Ví dụ:
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học. Cô rất say sưa với công việc, tối tối miệt mài bên trang giáo án, bên trang vở chấm bài cho học sinh. Với dáng người nhỏ nhắn nhưng rất nhanh nhẹn. Giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát, giọng ca như chim oanh vàng. Cô thật xứng danh là cô ca sĩ của trường. Em rất yêu quý cô Loan. 
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, Chính tả, Tập đọc... đều nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
2.2.2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh. 
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, tôi tạo cho học sinh nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá nặng về lý thuyết như phương pháp dạy học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói 
Nghe và kể lại câu chuyện "Giấu cày" - tập làm văn tuần 1.
Qua việc kể mẫu của tôi, việc quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa... học sinh kể nội dung câu chuyện như sau: 
Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời - Để tôi giấu cái cày vào bụi đã. 
Về nhà bác ta liền bị vợ trách - Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết chỗ, nó lấy mất cày thì sao. 
Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta liền chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: "Nó lấy mất cày rồi!"
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán hóm hỉnh, hài hước và kể chuyện lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe - nói học sinh rèn kỹ năng viết: nắm kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục văn cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh giá, thái độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết của các em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe - nói trong tiết Tập làm văn, phấn kể chuyện của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp. 
Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện. Tiết 2 - Bài Đất quý đấy yêu - tuần 11
Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội dung câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện. đúng nội dung, ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ để câu chuyện thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê-ti-ô-pi-a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất. 
Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói - viết, rút ra những nét điển hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức gữ gìn, xây dựng quê hương đất nước. 
Ngoài ra, tôi chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói, bài viết sẽ chính là tâm hồn, tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay, cái đẹp, yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 
2.2.3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong việc nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, tôi đã tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội dung, thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được những nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô. 
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết tôi chú ý cho học sinh sử dụng gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội dung câu chuyện. 
Tôi chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Tôi đã hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe, đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, tình cảm mà các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ. 
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 12.
Bài tập 2: Yêu cầu: học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta. 
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến.
Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt, giọng điệu, của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người nghe. Do đó, tôi cũng khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng những yếu tố phi ngôn ngữ này. 
2.2.4. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới 
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt động học tập một cách chủ động, tích cực. 
Tôi đã sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm, đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng vai thể hiện các hoạt cảnh, vận dụng các trò chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức... Qua đó học sinh lính hội kiến thức, tích cực, tự giác "học mà chơi - chơi mà học". Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh dạn, tự tin hơn khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước đông người một cách lưu loát, rành mạch, dễ hiểu. 
So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống: mỗi tiết tập làm văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại văn nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo viên hướng dẫn làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi gợi ý... khiến học sinh dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học sinh nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu rả của chính các em. 
Trong chương trình sách giáo khoa lớp 3, mỗi tiết Tập làm văn là một hệ thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe - nói, nói - viết, nghe - nói - viết... Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy - học, phân bố thời gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. 
Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau: 
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện "Tôi có đọc đâu" 
Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện. 
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học: 
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện 
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh và việc nghe giáo viên kể để lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe. 
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp. 
- Học sinh nhận xét 
- Giáo viên nhận xét, bổ sung
Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh với nhau, và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở 
Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập 
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học 
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập 
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn 
- Giáo viên nhận xét, bổ sung
Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập 
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết 
- Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập) 
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc. 
- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày.
- Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn: 
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng, hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp. 
Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong dạy Tập làm văn là nhiệm vụ cần thiết. 
2.2.5. Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân. 
Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện. 
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 5
Bài: Tập tổ chức một cuộc họp. 
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp. 
- Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp. 
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải quyết vấn đề, giao việc cho từng thành viên. 
Như vậy thông qua một tiết tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
2.2.6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp 
Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài giờ lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt; tổ chức các hoạt động: thi ca hát, tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng khiếu, Hội thi an toàn giao thông, ngày hội học sinh tiểu học,...
Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)
Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội... Ví dụ: tham dự hội thi tìm hiểu về Đội. 
+ Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí MInh, giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào đội (tiết tập làm văn - tuần 2) 
2.2.7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp
Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề, chủ điểm, nâng cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt được hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực hiện đồng bộ việc vận dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp trước (lớp 1 - 2) và tiếp theo (lớp 4 - 5) Cụ thể Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói theo chủ đề, nội dung, hình tranh nói thành câu. 
Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng cao với mức độ vừa phải: kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu câu (Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào?...) viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. 
Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn; yêu cầu về câu cao hơn; câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh nhân hoá, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5 - 7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn.
Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt truyện có nhân vật, kể chuỵên dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết: câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến tới viết thành bài văn. 
Đối với lớp 5: Học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu ghép), sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với số lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong khi tả, kể, viết. 
Tóm lại, kiến thức ở các lớp có mối quan hệ lôgíc: kế thừa, mở rộng, nâng cao. Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới ở tất cả các khối lớp. 
* Hiệu quả của đề tài:
Qua quá trình nghiên cứu, thực hiện đề tài, việc dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp tôi chủ nhiệm đạt được kết quả khả quan: Học sinh mạnh dạn tự tin hơn trong học tập, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn rõ ràng mạch lạc và giàu hình ảnh.
Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 đầu tháng 12 - tuần 13 với đề bài: 
Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền Trung, miền Bắc) để làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt.
Kết quả thu được như sau: 
Nội dung khảo sát
Tỷ lệ %
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý.
77.9%
2. Biết nói - viết thành câu.
72.7%
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
64.9%
4. Biết trình bày đoạn văn. 
68.8%
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên.
90.2.%
3. KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Qua quá trình nghiên cứu, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan trọng của việc dạy học phân môn Tập làm văn. Vì vậy, với kinh nghiệm này, không chỉ dừng lại áp dụng ở khối 3 mà triển khai vào các khối lớp trong nhà trường, xây dựng tích hợp các kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, tôi đã thu được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh hơn. 
Đề tài là cơ sở để giáo viên nghiên cứu và thực hiện trong giảng dạy phân môn Tập làm văn. Giúp giáo viên từng lúc san bằng trình độ học sinh trong lớp học; giúp học sinh tự tin hơn trong học tập, trong giao tiếp để các em hoàn thành nhiệm vụ học tập và tiếp tục học tập ở các lớp cao hơn. 
Từ những kết quả nêu trên, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
* Bài học kinh nghiệm:
1. Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp - lồng ghép" các phân môn trong môn Tiếng Việt. Biết kết hợp mối quan hệ chặt chẽ về yêu cầu kiến thức phân môn Tập làm văn của các khối lớp.
2. Chú trọng phương pháp dạy học theo quan điểm giao tiếp, rèn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết cho học sinh. 
3. Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu. 
4. Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Giáo viên sửa chữa sai sót thật kỹ càng cho học sinh, hướng dẫn HS ghi chép và sổ tay, vở nháp. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ thể của hoạt động, tổ chức các hoạt động giúp các em chiếm lĩnh tri thức và rút ra kết luận phù hợp với bài học. 
5. Giáo viên biết cách phối hợp hoạt động học tập với các hoạt động ngoài giờ lên lớp. 
* Khả năng ứng dụng triển khai:
Đề tài đang trong quá trình nghiên cứu và thực hiện bước đầu có hiệu quả khả quan ở trường TH số 1 An Thủy. Vì vậy đề tài có khả năng ứng dụng và triển khai cho tất cả giáo viên trong đơn vị cùng thực hiện và từng lúc bổ sung để việc dạy học phân môn Tập làm văn lớp 3 đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở làm nền tảng cho các em học tốt phân môn Tập làm văn ở các lớp cuối bậc Tiểu học.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất:
Phòng Giáo Dục & Đào Tạo, Cụm chuyên môn thường xuyên tổ chức các chuyên đề Tập làm văn theo từng chủ đề cho giáo viên học hỏi, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là những một số kinh nghiệm của bản thân đúc rút ra trong quá trình nghiên cứu, thực nghiệm sáng kiến nhằm giúp giáo viên và học sinh lớp 3 nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập làm văn theo yêu cầu đổi mới hiện nay. Tôi rất mong được sự quan tâm, góp ý của đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn. 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_day_tap_lam_van_lop_3_dap_ung_yeu_cau.doc
Sáng Kiến Liên Quan