Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh Lớp 2

Chuẩn bị tâm thế đọc.

Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc. Khi ngồi đọc, cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 20 đến 30 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu, thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô giáo gọi đọc học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần xác định rõ tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc - tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng.

Giáo viên cần cho các em hiểu rằng: Các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo và để tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho cả lớp cùng nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc to quá hoặc gào lên. Để luyện cho những em đọc quá nhỏ (lí nhí), giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Nếu đứng đọc tư thế phải đàng hoàng, thoải mái, sách được mở rộng và cầm bằng hai tay.

- Luyện đọc đúng:

+ Đọc đúng: Là sự tái hiện âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không được đọc thừa, không thiếu âm, vần, tiếng. Đọc đúng bao gồm phát âm

chính xác và đọc đúng ngữ điệu (ngắt nghỉ hơi đúng chỗ).

+ Luyện đọc đúng: Giáo viên phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.

Giúp học sinh có ý thức phân biệt các phụ âm đầu, dễ đọc sai theo đặc điểm cách phát âm địa phương.

 Đọc đúng các âm chính - đặc biệt là một số âm khó:

 VD: Không đọc: "yêu tiên", "con hiêu", "cấp cíu" mà phải đọc "ưu tiên", "con hươu", "cấp cứu"

 . Đọc đúng các âm cuối:

 VD: Học sinh có ý thức không đọc "thủa nào" "quai lại", "mịm màng" mà phải đọc là: " "thưở nào" "quay lại", "mịn màng".

 Ngoài ra đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngữ điệu câu. Cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng.

Trong một số bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở một số câu dài để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý) mà không tính đến nghĩa, tạo ra những lỗi ngắt giọng lô gích.

VD: Trường mới xây trên/nền ngôi trường lợp lá cũ.

 (Ngôi trường mới - Tiếng Việt lớp 2, tập 1)

Hoặc trong một số bài thơ, học sinh hay mắc lỗi ngắt nhịp do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ, (tạo ra sự cân đối về mặt âm thanh khi đọc từng

câu thơ). Với thơ 4 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/2, thơ 5 tiếng sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc

3/2, thơ lục bát sẽ ngắt theo nhịp chân 2/2/2 nên đã ngắt nhịp sai như:

 "Những ngôi/sao thức/ngoài kia/

 Chẳng bằng/mẹ đã/thức vì/chúng con"

 (Bài Mẹ - TV lớp 2 - Tập 1)

 Trên thực tế, ngay cả một số giáo viên cũng còn lúng túng trong việc xác định chỗ ngắt giọng trong một câu văn hay cho ngắt nhịp trong một câu thơ.

 Sau đây là một số kinh nghiệm giáo viên có thể vận dụng để hướng dẫn học sinh ngắt,

nghỉ hơi cho đúng. Khi ngắt giọng trong một câu văn hay ngắt nhịp trong một câu thơ cần đảm bảo nguyên tắc:

Dựa vào quan hệ cú pháp và nghĩa sẽ giúp chúng ta xác định cách ngắt nhịp đúng.

 

doc7 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 968 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“RÈN KĨ NĂNG ĐỌC ĐÚNG CHO HỌC SINH LỚP 2”
1. Lí do chọn biện pháp 
 Như chúng ta đã biết, giao tiếp bằng ngôn ngữ được thực hiện qua hai hình thức: khẩu ngữ (giao tiếp bằng lời nói) và bút ngữ (giao tiếp bằng chữ viết). Trong đó đọc là một hoạt động giao tiếp bằng khẩu ngữ, là hành vi tiếp nhận thông tin qua văn bản. Nhờ hoạt động đọc mà con người đã chuyển giao cho nhau những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư tưởng, tình cảm, thông tin hiểu biết của các thế hệ trước và của cả những người đương thời, phần lớn được ghi lại bằng chữ viết, làm giàu thêm tri thức của mỗi người và thúc đẩy xã hội không ngừng phát triển.
 Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình thường có hạnh phúc theo đúng nghĩa trong một xã hội hiện đại ngày nay. Vì vậy, đọc là một nhu cầu không thể thiếu đối với mỗi con người và đặc biệt đối với một đứa trẻ thì việc đọc lại càng có ý nghĩa thực tế hơn. Trước hết là trẻ phải đi học, phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Việc đọc giúp trẻ chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Đọc sẽ tạo ra hứng thú và động cơ học tập, tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Mục đích cuối cùng của việc đọc là để hiểu và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Vì vậy, sau khi đã hoàn thành việc đọc đúng, đọc trơn ở lớp 2 sang lớp 3 các em sẽ tiếp tục được hoàn thiện và tập trung vào việc đọc hiểu và diễn cảm nhiều hơn. Chính những điều kiện vừa nêu trên khẳng định sự cần thiết việc hình thành và phát triển một cách có hệ thống về năng lực đọc cho học sinh.
 Là một giáo viên được phân công giảng dạy lớp 2, bản thân tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc tìm ra một số giải pháp nào đó nhằm nâng cao kĩ năng đọc cho học sinh, giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc tiếp cận kiến thức. Đó cũng là lý do tôi chọn đề tài “Rèn kĩ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2 Trường tiểu học Thái Thủy” để nghiên cứu, nhằm trao đổi cùng đồng nghiệp trong việc giáo dục con người mà mỗi giáo viên chúng ta đang đảm nhận nhiệm vụ cao cả đó.
2. Mục đích chọn biện pháp
 	Thông qua việc dạy đọc giúp học sinh phát triển kỹ năng đọc và nghe, mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgíc cũng như có hình ảnh. Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống. Bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và tâm hồn lành mạnh, trong sáng, có thái độ ứng xử đúng trong cuộc sống, hứng thú đọc sách và yêu thích Tiếng Việt. Như vậy dạy đọc có ý nghĩa to lớn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển.
Là một giáo viên nhiều năm liền dạy lớp 2, tôi thấy việc rèn đọc cho học sinh để học tốt môn tập đọc là vô cùng cần thiết và quan trọng. Người giáo viên  không những rèn cho học sinh đọc đúng, đọc rõ ràng từng từ, từng câu trong một đoạn văn, đoạn thơ ngắn, biết dừng hơi ở dấu phẩy, dấu chấm câu... mà phải rèn cho học sinh bước đầu biết thay đổi giọng đọc phù hợp với bài thơ hoặc bài văn xuôi. Trong tiết Tập đọc, muốn phát huy tính tích cực của học sinh thì giáo viên cần khai thác triệt để đồ dùng dạy học, tranh ảnh, SGK.
3. Cách tiến hành biện pháp
* Tổ chức dạy đọc đúng cho học sinh:
- Chuẩn bị tâm thế đọc.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị tâm thế đọc. Khi ngồi đọc, cần ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 20 đến 30 cm, cổ và đầu thẳng, phải thở sâu, thở ra chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô giáo gọi đọc học sinh phải bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp đọc ngay. Trước khi nói về việc rèn đọc đúng cần xác định rõ tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc - tức là rèn đọc to, đọc đàng hoàng.
Giáo viên cần cho các em hiểu rằng: Các em đọc không phải chỉ cho mình cô giáo và để tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn để cho cả lớp cùng nghe rõ. Nhưng như thế hoàn toàn không có nghĩa là đọc to quá hoặc gào lên. Để luyện cho những em đọc quá nhỏ (lí nhí), giáo viên cần tập cho các em đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới thôi. Nếu đứng đọc tư thế phải đàng hoàng, thoải mái, sách được mở rộng và cầm bằng hai tay.
- Luyện đọc đúng:
+ Đọc đúng: Là sự tái hiện âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi. Đọc đúng là không được đọc thừa, không thiếu âm, vần, tiếng. Đọc đúng bao gồm phát âm 
chính xác và đọc đúng ngữ điệu (ngắt nghỉ hơi đúng chỗ).
+ Luyện đọc đúng: Giáo viên phải rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.
Giúp học sinh có ý thức phân biệt các phụ âm đầu, dễ đọc sai theo đặc điểm cách phát âm địa phương.
 Đọc đúng các âm chính - đặc biệt là một số âm khó:
 VD: Không đọc: "yêu tiên", "con hiêu", "cấp cíu" mà phải đọc "ưu tiên", "con hươu", "cấp cứu"
 . Đọc đúng các âm cuối:
 VD: Học sinh có ý thức không đọc "thủa nào" "quai lại", "mịm màng" mà phải đọc là: " "thưở nào" "quay lại", "mịn màng".
 Ngoài ra đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngữ điệu câu. Cần phải dựa vào nghĩa và quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng.
Trong một số bài văn xuôi, học sinh thường mắc lỗi ngắt giọng ở một số câu dài để lấy hơi một cách tuỳ tiện (còn gọi là ngắt giọng sinh lý) mà không tính đến nghĩa, tạo ra những lỗi ngắt giọng lô gích.
VD: Trường mới xây trên/nền ngôi trường lợp lá cũ.
 (Ngôi trường mới - Tiếng Việt lớp 2, tập 1)
Hoặc trong một số bài thơ, học sinh hay mắc lỗi ngắt nhịp do không tính đến nghĩa mà chỉ đọc theo áp lực của nhạc thơ, (tạo ra sự cân đối về mặt âm thanh khi đọc từng
câu thơ). Với thơ 4 tiếng các em sẽ ngắt nhịp 2/2, thơ 5 tiếng sẽ ngắt nhịp 2/3 hoặc
3/2, thơ lục bát sẽ ngắt theo nhịp chân 2/2/2 nên đã ngắt nhịp sai như:
 "Những ngôi/sao thức/ngoài kia/
 Chẳng bằng/mẹ đã/thức vì/chúng con"
 (Bài Mẹ - TV lớp 2 - Tập 1)
 Trên thực tế, ngay cả một số giáo viên cũng còn lúng túng trong việc xác định chỗ ngắt giọng trong một câu văn hay cho ngắt nhịp trong một câu thơ.
 Sau đây là một số kinh nghiệm giáo viên có thể vận dụng để hướng dẫn học sinh ngắt, 
nghỉ hơi cho đúng. Khi ngắt giọng trong một câu văn hay ngắt nhịp trong một câu thơ cần đảm bảo nguyên tắc:
Dựa vào quan hệ cú pháp và nghĩa sẽ giúp chúng ta xác định cách ngắt nhịp đúng. Ví dụ: 
Câu: "Những bông hoa mầu xanh / lộng lẫy dưới ánh mặt trời buổi sớm"
 (Bài Bông hoa niềm vui - TV lớp 2 - Tập 1).
không ngắt: "Những bông hoa/ màu xanh lộng lẫy dưới ánh mặt trời buổi sớm"...
Từ sự phân tích trên, ta thấy khi xây dựng kế hoạch bài dạy cho một tiết Tập đọc, giáo viên cần dự tính những chỗ học sinh hay ngắt giọng sai để xác định và chỉ ra được những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
Tuy nhiên, với từng bài cụ thể, ngoài việc dựa vào một số nguyên tắc ngắt giọng khi đọc trên đây, chúng ta cũng phải tính đến việc ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật của tác giả. Để hiểu và ngắt giọng cho đúng.
Ngoài ra, việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu: Nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đọc lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể. Với câu cầu khiến cần phải nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cần khiến khác nhau.
Như vậy đọc đúng đã bao gồm một số tiêu chuẩn của đọc diễn cảm.
- Trình tự và biện pháp luyện đọc đúng: Để giúp học sinh có thể đọc đúng toàn bài, giáo viên có thể tổ chức luyện đọc đúng cho học sinh thông qua nhiều bước từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp:
+ Luyện đọc từ "ngữ" khó.
+ Luyện đọc câu "liên câu" 
+ Luyện đọc đoạn.
Để tổ chức tốt một giờ dạy Tập đọc trên lớp, khi chuẩn bị bài ( xây dựng kế hoạch bài dạy) giáo viên phải dự tính những lỗi phát âm mà học sinh lớp mình, vùng mình hay mắc phải để xây dựng phương án dạy học phù hợp, luyện đọc có trọng tâm (đúng những từ ngữ thực sự khó đọc - học sinh hay nhầm lẫn). Ví dụ: ân/anh, hỏi/ngã, s/x...
Để rèn đọc đúng cho học sinh, trong các tiết tập đọc ta thường dùng hình thức đọc thành tiếng. Vì dùng hình thức này, giáo viên dễ dàng theo dõi và uốn nắn kỹ năng đọc đúng cho học sinh.
Đầu tiên là giáo viên đọc mẫu, sau đó học sinh luyện đọc từ, câu, rồi đến luyện đọc đoạn, cả bài, các bước dạy đi dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp thông qua nhiều vòng hoạt động và nhiều hình thức phong phú như đọc nối tiếp từng câu, đọc nối tiếp từng đoạn, đọc cá nhân, đọc đồng thanh có tác dụng thay đổi nhịp điệu giờ học, tạo hứng thú và luyện đọc cho học sinh, tránh được sự nhàm chán do phải kéo dài một hình thức luyện đọc.
* Luyện đọc nhanh:
- Đọc nhanh :( Còn gọi là đọc lưu loát)
Là nói đến phẩm chất đọc về mặt tốc độ, là việc đọc không ê a, không ngắc ngứ, vấn đề tốc độ chỉ đặt ra sau khi đã đọc đúng.
Mức độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn (không vừa đọc vừa đánh vần - đây là một trong những mục tiêu của các bài tập đọc lớp 2). Tốc độ đọc phải đi song song với sự tiếp nhận có ý thức về bài đọc. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc cho người khác nghe thì đọc phải xác định tốc độ nhanh, nhưng để cho người nghe kịp hiểu được. Vì vậy, đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc độ đọc chấp nhận được của đọc nhanh khi đọc thành tiếng là trùng hợp với tốc độ của lời nói (khi đọc thầm tốc độ sẽ nhanh hơn.)
- Biện pháp luyện đọc nhanh:
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh theo tốc độ đã định. Ngoài ra giáo viên còn có thể điều chỉnh tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc. Khi học sinh đọc thầm giáo viên có thể xem học sinh đọc đến đâu để kiểm tra tốc độ đọc thầm.
Giáo viên có thể đo tốc độ bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút.
Việc rèn đọc nhanh cho học sinh phải thường xuyên trong các tiết tập đọc. Nếu có em nào đọc chậm, chưa đảm bảo tốc độ thì giaó viên cũng cần quan tâm dành nhiều cơ hội cho em đó được luyện đọc trong các tiết tập đọc.
* Dạy đọc hiểu:
- Đọc hiểu (hay còn gọi là khả năng thông hiểu văn bản đọc) ở đây muốn nói đến kỹ năng làm việc với văn bản chiếm lĩnh được văn bản ở các mức độ khác nhau như: Nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề... cụ thể đối với lớp 2 là các em nắm được các nhân vật (số lượng, tên, đặc điểm); tình tiết của câu chuyện, nghĩa đen và nghĩa bóng dễ nhận ra của các câu văn (câu thơ). Nắm được ý nghĩa của bài đọc . Khi dạy đọc đúng chúng ta chủ yếu sử dụng biện pháp đọc thầm. Tuy nhiên, với học sinh lớp 2 kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong này theo hai bước.
Bước 1: Đọc to -> nhỏ -> nhẩm.
Bước 2: (đọc thầm): đọc bằng mắt theo que chỉ hoặc ngón tay -> đọc chỉ có mắt di chuyển.
Giáo viên cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời gian đọc thầm cho từng đoạn, bài. Học sinh đọc xong thì báo cho giáo viên biết để giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc thầm.
Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội dung văn bản. Tuy nhiên để hiểu những gì được đọc cần phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu. Từ đó hiểu được nội dung của cả đoạn, rồi cả bài. Việc chọn từ nào để giải thích phụ thuộc vào đối tượng học sinh. Giáo viên cần nắm vững đối tượng học sinh để lựa chọn từ giải thích cho phù hợp: (Có những từ khó đối với học sinh Thành phố nhưng không khó với học sinh nông thôn hoặc ngược lại).
- Biện pháp dạy đọc hiểu:
 Giáo viên có thể giải nghĩa, nêu ví dụ cho học sinh hiểu, hoặc gợi ý cho học sinh làm những bài tập nhỏ để tự nắm nghĩa của từ ngữ bằng một số biện pháp như sau:
 Đặt câu với từ cần giải nghĩa.
Tìm từ đồng nghĩa với từ ngữ cần giải nghĩa..
 Miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu thị ở từ ngữ cần giải nghĩa.
 Ngoài ra cũng có thể giúp học sinh nắm nghĩa của từ bằng đồ dùng dạy học (hiện vật, tranh vẽ, mô hình...)
Điều cần chú ý là dù giải nghĩa theo cách nào cũng chỉ nên giới hạn trong phạm vi nghĩa cụ thể ở bài đọc, không mở rộng ra những nghĩa khác, nhất là những nghĩa xa lạ với học sinh lớp 2.
Khi xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập cho giờ tập đọc, giáo viên cần xem xét hệ thống câu hỏi trong sách học sinh để có sự điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Có thể chọn, bổ sung hay chẻ nhỏ các câu hỏi trong sách giáo khoa nếu cần và xác định các đồ dùng chuẩn bị cho tiết dạy. VD: đồ dùng trực quan, (tranh, ảnh, vật thật), bảng phụ ghi các câu cần luyện đọc...
* Rèn đọc cho những học sinh ngắt nghỉ sai khi đọc và có hướng diễn cảm sai khi thể hiện nội dung bài đọc:
- Đây là dạng học sinh có khả năng đọc to, rõ từ, đọc đúng chính âm phụ âm tuy nhiên còn có hạn chế về kĩ năng ngắt nghỉ chưa đúng chỗ làm cho câu từ bị gãy vụn, bị bóp méo, biến thể về nội dung văn bản. Chắc hẳn ai cũng có nghe qua câu chuyên vui kể về một học sinh đọc bài như sau: 
- Một anh thanh niên đi vào nhà/đầu đội nón lá dưới chân/đi đôi dép cao trên trán/lấm tấm mồ hôi.
- Câu chuyện trên đôi lúc như đùa nhưng đó lá một tai hại lớn cho cả người đọc lẫn người nghe, trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong trường Tiểu học hiện nay, hiện tượng như tôi vừa nêu ra trên đây không phải là hiếm thấy mà là thường gặp,và thường gọi đó là cách đọc nhát gừng, vậy đối với trường hợp này ta phải khắc phục như thế nào?
 Đối với một bài thơ, bài văn, câu thơ, câu văn học sinh đọc cá nhân chưa ngắt nghỉ hơi đúng hoặc đọc sai nhiều như dạng đọc vừa vừa nêu ở trên tôi cho học sinh khác đứng tại chỗ hoặc lên bảng đánh dấu lại chỗ ngắt và cho học sinh đọc đồng thanh. Việc đọc đồng thanh trong giờ tập đọc làm cho không khí lớp học vui tươi, phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học. Tạo điều kiện cho tất cả học sinh được đọc thành tiếng. Đồng thời cũng giúp đối tượng học sinh trên nhận thấy những sai sót mà mình còn vướng phải để có điều kiện sửa chữa.Tuỳ theo từng bài từng mức độ đọc của học sinh mà tôi cho học sinh đọc đồng thanh cả bài hoặc 1 - 2 câu văn
- Ngoài những học sinh đọc sai kiểu nhát gừng như đã nói ở trên còn có những học sinh khi cầm sách là đọc liến thoắng (Quá nhanh) hoặc đọc như hát, như ru là những học sinh có hướng diễn cảm sai khi thể hiện nội dung bài đọc. Những học sinh này thường đọc một giọng đều đều, không lên không xuống tạo nên một không khí ảm đạm khi đọc. Tôi thường nêu lên cho học sinh thấy rằng khi đã đọc nhanh là đã có kĩ năng nhận diện mặt chữ tốt, cần khen ngợi tuy nhiên khi đọc thành tiếng là đọc cho người khác nghe vậy em cần phải chú ý xác định tốc độ cho người nghe hiểu kịp (Tốc độ cho phép tối đa là 50 tiếng/phút đối với lớp 2) và biểu đạt đúng cách đọc của từng bài.
- Tôi hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc thầm theo. Ngoài ra, còn dùng biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm tra lẫn nhau để có nhận xét sửa chữa. Đồng thời cho học sinh thảo luận về cách đọc sau đó thống nhất và làm mẫu để học sinh noi theo.
	Ví dụ: Khi dạy bài”Mẹ”
- Cho học sinh đọc 2 dòng thơ tôi hỏi học sinh cách đọc và cách ngắt nhịp
Mẹ/
Lặng rồi cả tiếng con ve/
Con ve cũng mệt/ vì hè nắng oi//
Nhà em vẫn tiếng ạ ời/
Kẽo cà tiếng võng/ mẹ ngồi mẹ ru//..
 - Muốn học sinh đọc đúng tốc độ, có hướng diễn đạt và biểu cảm đúng nội dung văn bản cần có sự chuẩn bị tốt bài đọc ở nhà, học sinh phải đọc trước nhiều. Em nào còn chưa theo kịp cần rèn luyện thêm sau tiết dạy.
* Rèn đọc cho những đối tượng học sinh có kĩ năng đọc nổi trội:
 - Đối với dạng học sinh này tôi chú trọng nâng cao kĩ năng đọc hiểu và đọc diễn cảm.
* Rèn đọc hiểu:
 Luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong bước đọc thầm. Vì đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng là có thể nhanh từ 1,5 - 2 lần, tất cả trí tuệ tập trung vào việc tiếp nhận và thông hiểu nội dung mà không cần chú ý đến việc phát âm.
- Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu. Kết quả của đọc thầm giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài tức là toàn bộ những gì đọc được.
- Tôi kết hợp chặt chẽ giữa việc tìm hiểu bài và việc luyện đọc. Hướng dẫn tìm hiểu bài đến đâu rèn đọc ngay đến đó. Không tách rời hai khâu này.
 Tôi cho 1 học sinh đọc thành tiếng đoạn 1 (cả lớp đọc thầm theo lần 1) sau đó đặt câu hỏi cho học sinh trả lời. Tương tự đối với đoạn 2, 3, 4 tôi đã kết hợp cho rèn đọc thầm được từ 2 lần và giải quyết song song cùng lúc việc rèn đọc và tìm hiểu bài.
 Bên cạnh đó để giúp học sinh đọc hiểu tốt tôi cũng chuẩn bị hệ thống câu hỏi để học sinh nêu lên được nội dung bài một cách khái quát, cách đọc bài. Tôi thường chú ý đến đến các câu hỏi để học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, đặt câu để làm rõ nghĩa từ tìm các từ gần nghĩa cùng nghĩa, trái nghĩa..
 + Ví dụ: Dạy bài “Tiếng chổi tre” 
 có câu: Những đêm đông
 Khi cơn giông 
 Vừa tắt.
- Em hiểu từ vừa tắt có nghĩa là gì? và tôi cho học sinh tập đặt câu với từ đó.
- Có làm được như vậy từ việc hiểu nghĩa của từ kết hợp hiểu nghĩa của câu và toàn bài từ đó học sinh có thể tóm lược được nội dung, ý đoạn hoặc cả bài đọc mà các em vừa đọc.
- Ngoài những giờ học trên lớp, những giờ đọc truyện, đọc sách ở thư viện, tôi cũng thường xuyên nhắc nhở học sinh cần phải luyện đọc thầm, không nên đọc thành tiếng khi không có yêu cầu.
* Rèn đọc diễn cảm:
- Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao chỉ thực hiện được khi đã đọc đúng và đọc lưu loát. Đó là việc đọc thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng, cường độ...để biểu đạt đúng những ý nghĩ tình cảm mà tác giả muốn gửi gắm trong bài đọc và cũng là thể hiện sự thông hiểu của người đọc đối với tác phẩm. Điều này thật ra chưa có nhiều học sinh ở bậc tiểu học làm được, vì vậy việc rèn cho học sinh kĩ năng này là một việc làm hết sức cần thiết.
4. Kết quả của biện pháp
Qua tìm hiểu thực trạng, để đề ra các biện pháp giảng dạy và quy trình áp dụng các biện pháp đã nêu trên trong giảng dạy tôi thấy: Việc sử dụng những biện pháp rèn đọc tích cực, cụ thể và phù hợp của giáo viên trong giờ tập đọc cho học sinh lớp 2 sẽ mang lại hiệu quả cao, đáp ứng được những đòi hỏi, yêu cầu về kiến thức, kĩ năng của phân môn Tập đọc lớp 2.
 Với mỗi tiết Tập đọc, tất cả các em được luyện đọc kỹ lưỡng với nhiều hình thức khác nhau, có tác dụng kích thích học sinh luyện đọc, tạo điều kiện cho nhiều em được đọc. Đặc biệt, luyện đọc theo nhóm là hình thức tạo điều kiện cho 100% học sinh được đọc. Nhờ được luyện đọc kĩ bài, các em hiểu bài tốt hơn, hoàn chỉnh kỹ năng đọc toàn bài, nâng cao chất lượng đọc. Với những em đọc chưa tốt, giáo viên có biện pháp uốn nắn kịp thời trong quá trình học tập, điều chỉnh và lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với trình độ các em.
 Tuy thời gian không dài, với cách tổ chức dạy học theo các biện pháp nêu trên, tôi thấy hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh có hứng thú học tập, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài, số em đọc đúng đã được nâng lên, số em đọc chưa đạt yêu cầu đã có phần giảm đi . Sau khi áp dụng các biện pháp tại lớp học mà tôi trực tiếp giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau: 
Lớp
Sĩ số
Thời gian
Đọc ngọng
Đọc sai phụ âm đầu
Đọc sai dấu
Đọc đúng
Đọc diễn cảm
2B
30
Đầu năm
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
0
0
8
26.7
10
33.3
12
40
3
10
Cuối HKI
0
0
1
3.3
2
6.7
25
83.3
15
50
Như vậy, để nâng cao chất lượng của giờ dạy tập đọc cho học sinh lớp 2, giáo viên cần quan tâm đúng mức đến việc rèn “đọc đúng” và “đọc hiểu” cho học sinh. Muốn vậy, mỗi giáo viên sẽ phải đầu tư nhiều thời gian cho việc chuẩn bị dạy để nghiên cứu kỹ bài đọc. Cần xây dựng câu hỏi và bài tập cô đọng, gợi mở nhiều hướng thực hiện có thể sử dụng vở bài tập để tăng hiệu quả giờ dạy và cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh. Việc dạy đọc cần giúp học sinh đọc tốt bài tập đọc và có hiểu biết vững chắc về bài đọc một cách rõ ràng.
 Biện pháp của tôi đã được thử nghiệm và bước đầu đã thu được kết quả thành công. Song trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Do vậy tôi mong sẽ nhận được nhiều hơn nữa những ý kiến đóng góp, bổ sung của quý đồng nghiệp, lãnh đạo để biện pháp này được hoàn thiện hơn. 
 Tôi xin trân trọng cảm ơn! 
 Thái Thủy, ngày 28 tháng 1 năm 2021
XÁC NHẬN NHÀ TRƯỜNG NGƯỜI VIẾT
 Dương Thị Huệ Hoàng Thị Hạnh

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_doc_dung_cho_hoc_sinh_lop.doc
Sáng Kiến Liên Quan