Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào giúp học sinh giải toán lớp 2 có hiệu quả

A. Lí do chọn đề tài :

Mục tiêu :

Giáo dục môn toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh :

- Có những kiến thức cơ sở ban đầu về số học các số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học đơn giản .

- Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải toán, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống .

- Bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng (bằng lời, bằng viết) các suy luận đơn giản; góp phần rèn luyện phương pháp học tập làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Ngoài những mục tiêu trên, cũng như các môn học khác ở tiểu học, môn toán góp phần hình thành và rèn luyện các phẩm chất, các đức tính rất cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại.

 Riêng mục tiêu dạy học môn toán lớp 2 nhằm giúp học sinh:

 

doc16 trang | Chia sẻ: hoahong.90 | Lượt xem: 10245 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào giúp học sinh giải toán lớp 2 có hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học đơn giản .
Hình thành và rèn luyện kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải toán, giải bài toán có nhiều ứng dụng thiết thực trong đời sống .
Bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán, phát triển hợp lý khả năng suy luận và biết diễn đạt đúng (bằng lời, bằng viết) các suy luận đơn giản; góp phần rèn luyện phương pháp học tập làm việc khoa học, linh hoạt sáng tạo. Ngoài những mục tiêu trên, cũng như các môn học khác ở tiểu học, môn toán góp phần hình thành và rèn luyện các phẩm chất, các đức tính rất cần thiết của người lao động trong xã hội hiện đại. 
 	Riêng mục tiêu dạy học môn toán lớp 2 nhằm giúp học sinh:
Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về; phép cộng, phép trừ có nhớ trong phạm vi 100; phép nhân, phép chia và bảng nhân 2, 3, 4, 5; bảng chia 2, 3, 4, 5; tên gọi và mối quan hệ giữa thành phần và kết hợp của từng phép tính; mối quan hệ giữa bảng chia nhân,... các số đến 1000, phép cộng và phép trừ các số có ba chữ số (không nhớ); Các phần bằng nhau của đơn vị dạng 1/2 ; 1/3 ; 1/4 ; 1/5 ;các đơn vị đo độ dài đeximét (dm), mét (m), kilomet (km), milimet (mm); giờ và phút, ngày và tháng; ki lô gam (kg), lít ( l ); nhận biết một số hình học (hình chữ nhật, hình tứ giác, đường thẳng, đường gấp khúc); tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi của hình tam giác, hình tứ giác; một số dạng bài toán có lời văn chủ yếu giải bằng một phép tính cộng, trừ, nhân hoặc chia.
 Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành về: cộng và trừ có nhớ trong phạm vi 100; nhân và chia trong phạm vi các bảng tính; giải một số phương trình đơn giản dưới dạng bài “Tìm x” ; tính giá trị biểu thức số (dạng đơn giản); đo và ước lượng độ dài, khối lượng dung tích; nhận biết hình và bước đầu tập vẽ hình tứ giác, hình chữ nhật, hình vuông, đường thẳng, đường gấp khúc; tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác;giải một số dạng bài toán đơn về cộng, trừ, nhân, chia ; bước đầu biết diễn đạt bằng lời, bằng ký hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành; tập dượt so sánh, lựa chọn, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, phát triển trí tưởng tượng trong quá trình áp dụng các kiến thức và kĩ năng Toán 2 trong học tập và trong đời sống.
Tập phát hiện, tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới theo mức độ của lớp 2, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập và thực hành Toán.
 Việc giải toán ở lớp 2 không khó đối với học sinh từ trung bình trở lên. Nhưng sẽ khó đối với học sinh trung bình yếu trở xuống bởi lẽ nó gồm nhiều dạng toán (số học, đo đại lượng thông dụng, một số yếu tố ban đầu về đại số, một số yếu tố hình học và giải bài toán có lời văn).
 Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi nắm rất kỹ nội dung chương trình toán lớp 2 và phân thành nhóm dạng toán để dạy cho các đối tượng học sinh.
 Nhằm giúp cho các em biết giải toán lớp 2 nên tôi đã chọn đề tài : 
“ LÀM THẾ NÀO GIÚP HỌC SINH GIẢI TOÁN LỚP 2 CÓ HIỆU QUẢ.” 
 B. Quá trình thực hiện: 
 1. Dạy học giải toán : 
 Bản thân tôi nghiên cứu kĩ chương trình toán của lớp 2. Việc dạy học giải toán nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng, phong phú.
 Và yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng của môn Toán ở lớp 2: 
 + Biết đọc, viết so sánh các số từ 0 đến 100.
 + Học thuộc, bảng cộng, bảng trừ trong phạm vi 20 và biết thực hiện phép cộng, phép trừ không nhớ hoặc có nhớ một lần trong phạm vi 100. Tính nhẩm, tính viết Biết tính nhẩm trong những trường hợp đơn giản. Biết cộng các số có đến ba chữ số, tổng không quá 1000, không nhớ. Tính nhẩm, tính viết. Biết trừ các số có đến ba chữ số không nhớ. Tính nhẩm, tính viết.
 + Lập phép nhân từ tổng các số hạng bằng nhau.
 + Biết tính giá trị các biểu thức số có đến hai dấu cộng, trừ, biết tên gọi thành phần và kết quả của phép cộng, phép trừ và tìm thành phần chưa biết của phép tính (chưa dùng kí hiệu chữ) 
 + Biết tên gọi và kí hiệu các đơn vị đo độ dài : m ; dm ; cm , biết 1m = 10dm, 1m = 100cm ; 1dm = 10cm 
 Biết tên gọi là kí hiệu của đơn vị đo khối lượng: kg; của đơn vị dung tích: lít ( l )
 Biết tên gọi các ngày trong tuần lễ.
 Biết đo độ dài các đoạn thẳng theo các đơn vị cm ; dm 
 + Nhận và gọi đúng tên hình tứ giác, hình chữ nhật, đường gấp khúc. Biết tính độ dài đường gấp khúc.
 + Biết giải và trình bày bài giải các bài toán có lời văn có một phép tính cộng hoặc một phép trừ hoặc một phép nhân, hoặc một phép chia. Bước đầu biết giải các bài toán hợp bằng hai phép tính.
 2. Hoạt động chuẩn bị cho việc giải toán: 
 Tìm hiểu tình hình lớp, từ đó đề ra nề nếp học ở nhà, trên lớp để học sinh chủ động tíêp thu kiến thức mới. Do yêu cầu cơ bản, tối thiểu mà tất cả học sinh phải đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng. Nhưng thực chất học sinh trong lớp còn có những em học yếu môn Toán do bị hổng các kiến thức và kĩ năng cơ bản. Nhiệm vụ được đặt ra là người giáo viên phụ trách lớp phải cố gắng giúp đỡ các em này nhanh chóng theo kịp được với mặt bằng kiến thức chung của lớp mình.
Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy cần phải phân loại học sinh thành 2 đối tượng: Học sinh học từ trung bình trở lên và học sinh yếu.
1. Học sinh học từ trung bình trở lên:
1.1.Ở trường:
a. Giờ học bài mới: 
Giáo viên tổ chức và hướng dẫn học sinh học tập, quản lý đánh giá việc học tập của học sinh nhằm đạt được mục đích yêu cầu cụ thể của từng tiết học, từng bài. 
Ví dụ: Bài “26 + 4 ; 36 + 24 ” dạy theo trình tự:
** Giới thiệu phép cộng 26 + 4 
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
 GV giơ 2 bó que tính và hỏi : có mấy chục que tính ? (GV gài bảng) 
Cho HS lấy 2 bó hoặc (2 thẻ) que tính đặt trên bàn .
- GV đưa thêm 6 que và hỏi: có thêm mấy que tính ? (GV cài bảng) 
- Cho HS lấy 6 que tính đặt trên bàn .
- GV hỏi tiếp: Có tất cả bao nhiêu que? 
- Có 26 thì viết vào cột đơn vị chữ số nào? cột chục chữ số nào? (GV viết bảng)
- GV giơ 4 que tính và hỏi: có thêm que tính ? 
- Cho HS lấy 4 que tính đặt trên bàn ở ngay dưới 6 que tính .
-GV gài 4 que tính vào bảng ở ngay dưới 6 que tính, hỏi: Có thêm 4 que tính thì viết vào cột nào ? 
- GV chỉ vào các bó và các que tính rời ở bảng gài và nêu: 26 cộng 4 bằng bao nhiêu ? 
- GV viết dấu + và kẻ vạch ngang vào bảng cài . Hướng dẫn HS lấy 6 que tinh rồi bó lại cùng với 4 que rời thành 1 bó 1 chục que tính. Hỏi HS: Bây giờ có mấy bó que tính? Hỏi tiếp: 3 bó que tính có mấy chục que tính? 
GV nêu: 26 que tính thêm 4 que tính được 3 chục que tính hay 30 que tính. Như vậy 26 cộng 4 bằng bao nhiêu? 
GV nêu tiếp 26 cộng 4 bằng 30, viết 30
vào bảng như thế nào ? 
GV viết 30 vào bảng .
- GV viết 26 + 4 =....... lên bảng.
- GV nói : vừa rồi các em đã nắm được cách cộng 26 + 4 dựa trên que tính .
 Sau đây cô sẽ hướng dẫn cách cộng 26 + 4 bằng cách đặt tính (theo cột dọc).
gồm 2 bước sau : + bước 1: đặt tính 
 + bước 2: Tính 
hướng dẫn HS đặt tính rồi tính 26 + 4 như sau : 
+ Tính : 
 ( Cho vài HS chỉ vào phép tính rồi nêu cách tính như trên ) 
- Vậy 26 + 4 = ? , thế thì cách nào tìm ra kết quả nhanh hơn ? 
2. Giới thiệu phép cộng 36 + 24
- Tiến hành tương tự các bước như đã làm với 26 + 4 .
 + Chuyển sang phần đặt tính (theo cột dọc), GV cho HS tự đặt tính rồi tính 36+24. Sau khi HS đặt tính, tôi yêu cầu hs trình bày lại cách làm của mình. Sau đó yêu cầu HS tự tính và tự nêu cách tính .
 Vậy 36 + 24 = ? , thế thì cách nào tìm ra kết quả dễ hơn? (cách đặt tính theo cột dọc) 
- HS trả lời (có 2 chục que tính) 
- HS thực hiện 
- HS trả lời (có thêm 6 que tính) 
- HS thực hiện 
- HS tính (đếm) và trả lời ( 26 ) 
- HS trả lời (cột đơn vị chữ số 6; cột chục chữ số 2)
- 4 que tính 
- HS thực hiện .
Viết 4 vào cột đơn vị ,thẳng cột với 6 )
HS thực hiện 
 có 3 bó que tính .
- 3 chục que tính .
- 26 cộng 4 bằng 3 chục hoặc 26 cộng 4 bằng 30. 
- Viết 0 vào cột đơn vị , thẳng cột với 6 và 4, viết 3 vào cột chục, thẳng cột với 2 
- GV viết 30 vào bảng .
- HS lên ghi kết quả phép cộng để có 26+4 =30 rồi gọi vài HS đọc lại ( 26 cộng 4 bằng 30 ) 
 2 6
+
 4
 3 0
 (Viết 26,viết 4 thẳng cột với 6, v viết dấu +, kẻ vạch ngang ) 
 6 cộng 4 bằng 10 ,viết 0 ,nhớ 1
 2 thêm 1 bằng 3 ,viết 3.
 3 6
+
 2 4
 6 0
 6 cộng 4 bằng 10, viết 0, nhớ 1.
 3 cộng 2 bằng 5, thêm 1 bằng 
 6, viết 6.
 Việc hướng dẫn học sinh tìm kết quả 26 + 4 hoặc 36 + 24 trên que tính là giúp học sinh khả năng tư duy, phân tích, tổng hợp phù hợp với lứa tuổi. Còn việc tìm kết quả phép tính 26 + 4 hoặc 36 + 24 bằng cách đặt tính là nhằm phát triển kỹ năng tính toán phép cộng có nhớ trong phạm vi 100.
 Như vậy cả tiết học, giáo viên giữ vai trò người tổ chức, dẫn dắt, giúp đỡ học sinh, coi học sinh là người thực sự làm việc và mỗi học sinh đều có kết quả do chính mình làm ra (trong quá trình đó học sinh giải trên vở nháp).
b. Giờ luyện tập,thực hành :
 b.1 Giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình bằng cách:
 - Tổ chức cho HS làm các bài tập theo thứ tự đã sắp xếp trong SGK Toán 2 , không tự ý lướt qua hoặc bỏ qua các bài tập nào, kể cả bài tập HS cho là dễ. 
-Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong quá trình làm bài. Sau mỗi bài, HS nên tự kiểm tra hoặc do GV tổ chức kiểm tra, nếu làm xong chuyển sang làm bài tiếp sau.
Trong tiết dạy nên chấp nhận có học sinh làm được nhiều bài hơn HS khác. Đối với học sinh khá giỏi làm được nhiều bài tập trong SGK càng tốt đặc biệt cần giúp học sinh khai thác các nội dung tiềm ẩn trong các bài tập . 
Ví dụ : LUYỆN TẬP /117
 Bài 2 ) Tìm y : 
 a) y + 2 = 10 b) y X 2 = 10 c) 2 X y = 10
 Đối với bài tập này thì đòi hỏi HS phải nhận được dạng toán, xác định điều mình cần tìm vì ở cả 3 bài đều có chung kết quả là 10, đều chứa y, chứa số 2. nhưng chỉ khác dấu của phép tính. (a) dạng tìm số hạng chưa biết , (b) tìm thừa số chưa biết 
 Bài 4 ) Có 12 kg gạo chia đều vào 3 túi. Hỏi mỗi túi có mấy ki-lô-gạo?
 Bài 5 ) Có 15 bông hoa cắm vào các lọ, mỗi lọ 3 bông hoa. Hỏi cắm được mấy lọ hoa ? 
 Đối với bài 4, các em cho cô biết, bài toán cho biết gì, tìm gì? (12 kg gạo chia đều vào 3 túi, tìm mỗi túi có mấy ki-lô-gam gạo? Vậy thì muốn tìm 1 túi đựng mấy ki-lô-gam gạo ta làm thế nào? (phép chia ,lấy 12chia cho 3); câu lời giải ra sao? (Số ki - lô - gam mỗi túi gạo có) 
Học sinh trình bày bài giải : Bài giải 
 Số ki-lô-gam gạo 1 túi có là : 
 12 : 3 = 4 ( kg ) 
 Đáp số : 4 kg 
 Tương tự, bài 5, các em cho cô biết, bài toán cho biết gì, tìm gì? (15 bông hoa cắm vào các lọ, mỗi lọ 3 bông hoa; Tìm: cắm được mấy lọ hoa? 
 Vậy thì, muốn tìm số lọ hoa cắm được ta làm thế nào? (phép chia, lấy 15chia cho 3); câu lời giải ra sao? (Số lọ hoa có) 
 Bài giải 
 Số lọ hoa có là : 
 15 : 3 = 5 ( lọ ) 
 Đáp số : 5 lọ 
Ở đây phép tính đều là phép chia nhưng với bài toán 4 thì tìm số ki-lô-gam 1 túi đựng. Còn bài toán 5 thì tìm số lọ hoa.
 1.2 Ở nhà :
 Việc ra bài tập về nhà đối với tôi hết sức quan trọng vì giúp các em rèn luyện, ôn lại kiến thức đã học nhằm học kiến thức mới tốt hơn. Một việc không kém quan trọng đó là vở nháp. Tôi buộc em nào cũng phải có vở nháp và nó được xem như là một cuốn vở học chính thức. 
Riêng học sinh diện khá giỏi phải có quyển bài tập nâng cao để làm thêm. 
Để chuẩn bị cho bài học mới tôi luôn yêu cầu các em ôn các kiến thức cũ có liên quan, tự nghiên cứu bài để đến lớp tiếp thu bài cho chắc và sâu hơn. 
 Tôi kiểm tra bài làm của hs đồng thời hướng dẫn các em cách tự kiểm tra chéo lẫn nhau. Làm như thế là giúp các em một lần nữa làm lại bài tập đó, từ đó giúp các em nắm vững dạng toán.
 2.Học sinh trung bình yếu trở xuống: 
 Đối với học sinh trung bình yếu giáo viên làm việc trực tiếp với từng em, dùng phương pháp gợi mở để các em vận dụng kiến thức đã học vào bài làm, tôi cho những ví dụ tương tự để học sinh hiểu kỹ yêu cầu các em cố gắng làm được bài tập cơ bản
+ Với môn Toán, hầu hết các học sinh yếu đều có một nguyên nhân chung là: kiến thức ở các lớp dưới bị hổng; không có phương pháp học tập; tự ti. rụt rè, thiếu hào hứng trong học tập.
+ Ở mỗi học sinh yếu bộ môn Toán đều có nguyên nhân riêng, rất đa dạng. Có thể chia ra một số loại thường gặp là:
Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu.
Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn chế. Nhiều học sinh thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển.
Do lười học.
Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt .
Xác định rõ một trong những nguyên nhân trên đối với mỗi học sinh là điều quan trọng. Công việc tiếp theo giáo viên có biện pháp để xoá bỏ dần các nguyên nhân đó, nhen nhóm lại lòng tự tin và niềm hứng thú của học sinh đối với việc học môn Toán.
*Những biện pháp cụ thể để giảm dần số lượng học sinh học yếu môn Toán.
@ 1. Do quên kiến thức cơ bản, kỹ năng tính toán yếu.
Vì kiến thức ở lớp dưới của các em bị hổng, không thể nào bù đắp ngay được trong một thời gian ngắn. Tôi dặt quyết tâm trong suốt cả năm học, đặc biệt là học kì I để giúp nhóm học sinh loại này lấp dần các lỗ hổng kiến thức. Đối với những học sinh này phải có thêm thời gian học dưới sự hướng dẫn lại tỉ mỉ những kiến thức cơ bản, trọng tâm theo một hệ thống riêng và yếu tố dẫn đến thành công là nắm chắc, luyện kĩ. Trong các buổi học trên lớp thường được kiểm tra, rà soát và củng cố các kiến thức, chấm bài tay đôi trong tiết luyện tập, thường xuyên khích lệ động viên mỗi khi các em được điểm cao hơn. Đối với chương trình lớp 2 các em muốn tiếp thu được thì trước hết phải biết cộng trừ có nhớ trong phạm vi 100.
 Ví dụ : 26 + 4 ; 36 + 24 
 Tôi chỉ yêu cầu các em biết đặt tính rồi tính ( theo cột dọc )
 3 6
+
 2 4
 6 0
 2 6
+
 4
 3 0
 Các em làm trong bảng con hễ sai dễ sửa . Sau đó, tôi cho bài khác : 27 + 3;
 25 + 5; 22 + 8; 21 + 9. Vì sao tôi làm như vậy? Vì tôi muốn củng cố, khắc sâu cho các em các chữ số ở cột đơn vị cộng lại đều bằng 10, (viết 0, nhớ 1), 2 cộng 1 bằng 3, viết 3. 
 Các em tính được 36 + 24 ,
 tôi cho đề khác : 35 + 25; 38 + 22; 31 + 39; 43 + 27; 
 Vì được làm nhiều bài như vậy các em sẽ nắm bài và nhớ lâu hơn. Đồng thời các em có thể làm bất cứ bài cộng nào có nhớ trong phạm vi 100. 
 Do đó các học sinh này có nhiều tiến bô; cụ thể là: thích học toán, hay xung phong lên bảng
 Phép cộng có nhớ trong phạm vi 100 các em biết làm rồi. Còn dạy phép trừ có nhớ trong phạm vi 100 thì tôi hướng dẫn cho các em như sau:
 ** Trường hợp : 40 - 9 ; 40 -19 
 4 0
-
 9
 3 1
 Trước hết, tôi yêu cầu học sinh đặt tính (theo cột dọc) lưu ý HS viết 9 thẳng cột với 0, rồi GV hướng dẫn học sinh trừ từ phải sang trái, vừa nói, vừa viết: 
 40 0 không trừ được 9, lấy 10 trừ 9 bằng 1, viết 1, nhớ 1; 
 9 4 trừ 1 bằng 3, viết 3. 
 31
 Sau đó tôi yêu cầu học sinh làm lại . Và làm thêm một số ví dụ như : 20 - 1; 
 30 - 4 ; 90 – 8 ; 60 - 7 ; Sau đó tôi kiểm tra bài làm của học sinh .
 Sang dạng : 40 - 19 .
 4 0
-
 1 9
 2 1
 Tôi cho học sinh nhận xét bài này khác với bài trước ( 40 - 9 ) ở điểm nào? cách trừ ra sao ? Tôi yêu cầu học sinh đặt tính theo cột dọc, rồi hướng dẫn cách trừ . 
 0 không trừ được 9 ,lấy 10 trừ 9 bằng 1 ,viết 1 ,nhớ 1. 
 1 thêm 1 là 2 , 4 trừ 2 bằng 2,viết 2 . 
 Sau đó tôi yêu cầu học sinh làm lại . Và làm thêm một số ví dụ như : 40 - 18; 
 50 - 23; 60 - 19; 70 - 41; 30 - 12 
 3 7
-
 1 9
 1 8
 Học sinh làm trên bảng con; GV kiểm tra, theo dõi cách đặt tính, tính của học sinh; Sai đến đâu sửa đến đó. Và động viên khen ngợi kịp thời mỗi học sinh khi làm đúng.
 Ví dụ : 37 - 19 
 Trước hết, tôi yêu cầu học sinh đặt tính (theo cột dọc) 37
 -
 3 7
-
 1 9
 1 8
 + Viết số bị trừ, sau đó viết số trừ sao cho đơn vị thẳng cột với nhau (7 thẳng cột với 9), chục thẳng cột với nhau (3 thẳng cột với 1), sau đó viết dấu “ - ” rồi kẻ vạch ngang. GV hướng dẫn HS trừ từ phải sang trái, vừa nói vừa viết :
 7 không trừ được 9, lấy 17 trừ 9 bằng 8, viết 8, nhớ 1 .
 1 thêm 1 là 2, 3 trừ 2 bằng 1, viết 1.
 Học sinh làm bảng con và nêu lại cách làm.
 Tương tự, yêu cầu học sinh làm các bài sau: 37 – 18; 47 – 19; 47 – 29;
 67 – 19; 67 – 18; 67 – 29; 67 – 39. 
 Các em làm bài trên bảng con, hễ sai dễ sửa. 
 Đối với những học sinh này thì GV kèm kĩ, sát từng học sinh một. 
 Vì vậy các em tiến bộ trông thấy. Niềm vui rạng ngời trên gương mặt các em.Và đó là phần thưởng vô giá đối với người thầy. 
 @2. Do chưa nắm được phương pháp học môn Toán, năng lực tư duy bị hạn chế. Nhiều học sinh thể lực vẫn phát triển bình thường nhưng năng lực tư duy toán học kém phát triển.
 Vấn đề cơ bản là giúp các em lấy lại lòng tự tin, phát huy được những tố chất cơ bản đang tiềm ẩn trong mỗi em trong việc học tập môn Toán. Phương pháp trực quan, hệ thống các bài tập từ dễ đến khó, tìm các cách giải khác nhau cùng với các câu hỏi vừa sức, các bài toán vui, các bài toán gắn với thực tế chính là chìa khoá để giải quyết vấn đề.
 @3. Do lười học.
 Những học sinh này trong lớp thường không chú ý nghe giảng, mỗi khi làm bài kiểm tra tại lớp thường cẩu thả, không có ý thức kiểm tra lại bài làm. Cô giáo nhắc nhở thì xem lại qua loa cho xong chuyện. Bài tập và bài học ở nhà không chuẩn bị chu đáo trước khi đến lớp. Tóm lại, đối với diện học sinh này cần có sự kết hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm quản lý việc học ở nhà và việc kiểm tra nhắc nhở thường xuyên ở lớp để từng bước đưa các em vào nền nếp học tập.
 @4 .Do thiếu điều kiện học tập hoặc do điều kiện khách quan tác động - học sinh có hoàn cảnh đặc biệt .
 Các em này thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm. Tôi bố trí thời gian kèm cặp, lấp dần lỗ hổng kiến thức, hình thành dần phương pháp học toán cho các em. Luôn khích lệ động viên để các em không bị mặc cảm, tự ti mà tự tin vào bản thân mình để từ đó vươn lên trong học tập. Với các em này, cô giáo phải hết lòng thương yêu, giúp đỡ. Cô là chỗ dựa tinh thần và tình cảm của các em.
C. Kết quả và hiệu quả phổ biến ứng dụng nội dung vào thực tiễn 
 	 Trong việc dạy học giải toán ở lớp 2 , tôi đã rút ra được kinh nghiệm qua từng tiết dạy. Kết quả kiểm tra khảo sát đầu năm số học sinh yếu về môn Toán, giải Toán chậm không đảm bảo thời gian 8 em. Cho đến nay, giờ học Toán có nhiều chuyển biến, các em không trông chờ vào sự gợi mở của giáo viên mà tạo cho mình thói quen chuẩn bị trước bài, độc lập suy nghĩ.
 Điểm 9 và 10 (10 em), Điểm 7 và 8 (9 em), Điểm 5 và 6 (5 em) còn Điểm dưới trung bình (1 em).
 Học sinh yếu cũng tự mình giải được những bài tập cơ bản, tạo ra niềm tin vào sự cố gắng có hiệu quả của bản thân, giúp các em ôn tập, đạt kết quả cao nhất trong kỳ thi cuối năm.  
 Tóm lại, ở tất cả các trường hợp học sinh yếu môn Toán, việc quan tâm của giáo viên đến từng học sinh và phương pháp giảng dạy sát đối tượng, kịp thời khích lệ động viên, đáp ứng đúng những điều các em còn thiếu về kiến thức, kỹ năng và cách suy luận toán học sẽ giúp các em dần theo kịp yêu cầu về chất lượng học tập môn Toán ở từng lớp học cấp tiểu học.
 Song nhiệm vụ chủ yếu của người thầy vẫn là sự tiến bộ chung của toàn lớp. Vì thế tôi nghĩ, trong tất cả các khâu soạn, giảng, kiểm tra người thầy vẫn phải lấy trình độ tiếp thu chung của lớp làm chuẩn mực để hướng tới. Vấn đề là, trong cái chuẩn mực chung ấy người thầy còn phải luôn luôn lưu tâm đến những em học yếu môn Toán, luôn dành cho các em một sự ưu ái, một thái độ khích lệ, động viên, những lời chỉ bảo ân cần Và sự tiến bộ của các em trong học tập là phần thưởng vô giá đối với mỗi người giáo viên chúng ta. 
 Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc giúp học sinh lớp 2 giải toán đồng thời dần dần giúp các em ham học toán và học giỏi toán. 
Bảo An, ngày tháng năm 201
Người viết
Điền Thị Thu Sương
Nhận xét của Hội đồng sáng kiến Trường Tiểu học Bảo An 1 
Bảo An, ngày Tháng năm 201
Chủ tịch 

File đính kèm:

  • docSKKN Toan hoc 2_12187105.doc
Sáng Kiến Liên Quan