Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực học sinh thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, nhiều thành tựu khoa học và công nghệ xuất hiện và đổi mới vô
cùng nhanh chóng. Theo đó, hệ thống giáo dục cũng đặt ra những yêu cầu cần
phải đổi mới. Việc thi thố tài năng bằng thuộc lòng những hiểu biết mang tính lí
thuyết dần được thay bằng năng lực chuyên môn, năng lực giải quyết vấn đề, đưa
ra những cách giải quyết mang tính sáng tạo, hiệu quả cao thích ứng với đời sống
xã hội.
Trước những đòi hỏi của thực tiễn, giáo dục đang có những bước đổi mới
căn bản và toàn diện. Nghị quyết 29 – NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương đã
đề ra mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể đối với giáo dục phổ thông, đó là: “ tập trung
phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân Chú trọng
giáo dục năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn ”.
Đổi mới giáo dục đòi hỏi các nhà trường không chỉ trang bị cho học sinh (HS)
những kiến thức đã có của nhân loại mà còn phải bồi dưỡng, hình thành ở các em
tính năng động, óc tư duy sáng tạo và khả năng thực hành áp dụng, tức là đào tạo
những người lao động không chỉ có kiến thức mà phải có năng lực hành động, kĩ
năng thực hành.
Đối với học sinh THPT, Vật lí là một môn học hay nhưng khó, bởi đây là
môn học đòi hỏi người học không chỉ nắm lý thuyết và giải được bài tập mà còn
phải có kỹ năng thực hành cũng như hiểu được những ứng dụng vật lý trong cuộc
sống và trong khoa học-kỹ thuật. Vì vậy, để hoạt động dạy học môn Vật lý có hiệu
quả thì cần khơi dậy hứng thú và niềm đam mê cho HS, kích thích, đòi hỏi người
học phải suy nghĩ, tìm tòi, phải phát huy tư duy sáng tạo từ đó có ham muốn, có
khát vọng hiểu biết, có cố gắng trí tuệ và nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh
tri thức. Tuy nhiên, hiện nay việc khơi dậy hứng thú và niềm đam mê còn chưa
đạt được những kết quả như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là GV chưa chú
ý tới việc cần khơi dậy hứng thú và niềm đam mê, rèn luyện các kỹ năng, phương
pháp học cho HS mà chỉ tập trung dạy sao cho hết kiến thức trong SGK; một phần
nguyên nhân nữa về phía HS đó là tính thụ động, ỷ lại trong học tập do các em đã
quen với cách học truyền thống trước kia.
ạo trí tuệ (theo I.Ya. Lerner) được chia thành hoạt động tìm kiếm và hoạt động nghiên cứu. Các yếu tố của hoạt động sáng tạo xuất hiện trong các vấn đề khác nhau, ở các mức độ khác nhau. Lerner đã nêu ra các đặc điểm của hoạt động sáng tạo như sau: - Có năng lực vận dụng những kiến thức đã biết để ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có. - Có năng lực nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự. - Có khả năng độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng. - Có năng lực tìm kiếm và phân tích các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó. - Có khả năng độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế. 7 - Có khả năng kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề. Những dấu hiệu sang tạo được xác định dựa trên những hoạt động sau đây của học sinh: - Học sinh sử dụng thiết bị đã được học hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (cấu trúc lại, kết hợp với các thiết bị khác); - Sử dụng các vật liệu trực quan như một yếu tố bài tập, hoặc thực hiện chúng với các tương tác khác (phân tích, thay đổi trong tư duy), mà không làm thay đổi cách tiếp nhận. Sự sáng tạo có thể giáo dục được, nhưng phải theo một cách khác với con đường truyền tải kiến thức và hình thành kỹ năng. Có được kiến thức và kĩ năng, con người mới có thể sáng tạo. Tuy nhiên, dù có được lượng kiến thức và kỹ năng đã được quy chuẩn thì cũng không thể đảm bảo sự phát triển khả năng sáng tạo của con người được. Sự trải nghiệm trong hoạt động sáng tạo của nhân loại được tích lũy dần dần. Mặc dù không phải trong bất kỳ hoạt động nào nó cũng xuất hiện và định hình. Sự sáng tạo có thể giáo dục được, nhưng phải theo một cách khác với con đường truyền tải kiến thức và hình thành kỹ năng. Bản chất của hoạt động sáng tạo nằm ở nội dung của các yếu tố giáo dục cơ bản của con người, mà đối với nó không nên gò ép vào một hệ thống các hành động nhất định. Những hệ thống này đều có đặc điểm riêng của mình. 1.3.3.Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ thông mới Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, kế hoạch giáo dục bao gồm các môn học, chuyên đề học tập (gọi chung là môn học) và hoạt động trải nghiệm sáng tạo; hoạt động giáo dục (theo nghĩa rộng) bao gồm hoạt động dạy học và hoạt động trải nghiệm sáng tạo. Mục đích chính: Hình thành và phát triển những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng sống và những năng lực chung cần có ở con người trong xã hội hiện đại. Nội dung: - Kiến thức thực tiễn gắn bó với đời sống, địa phương, cộng đồng, đất nước, mang tính tổng hợp nhiều lĩnh vực giáo dục, nhiều môn học, dễ vận dụng vào thực tế. - Được thiết kế thành các chủ điểm mang tính mở, không yêu cầu mối liên hệ chặt chẽ giữa các chủ điểm. Hình thức tổ chức: 8 - Đa dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô, đối tượng và số lượng... - Học sinh có nhiều cơ hội trải nghiệm - Có nhiều lực lượng tham gia chỉ đạo, tổ chức các hoạt động trải nghiệm với các mức độ khác nhau (giáo viên, phụ huynh, nhà hoạt động xã hội, chính quyền, doanh nghiệp,...). Tương tác, phương pháp: - Đa chiều - Học sinh tự hoạt động, trải nghiệm là chính. Kiểm tra, đánh giá - Nhấn mạnh đến kinh nghiệm, năng lực thực hiện, tính trải nghiệm. - Theo những yêu cầu riêng, mang tính cá biệt hóa, phân hóa - Thường đánh giá kết quả đạt được bằng nhận xét. Như vậy, hoạt động trải nghiệm trong nhà trường cần được hiểu là hoạt động có động cơ, có đối tượng để chiếm lĩnh, được tổ chức bằng các việc làm cụ thể của học sinh, được thực hiện trong thực tế, được sự định hướng, hướng dẫn của nhà trường. Đối tượng để trải nghiệm nằm trong thực tiễn. Qua trải nghiệm thực tiễn, người học có được kiến thức, kĩ năng, tình cảm và ý chí nhất định. Sự sáng tạo sẽ có được khi phải giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn phải vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải quyết vấn đề, ứng dụng trong tình huống mới, không theo chuẩn đã có, hoặc nhận biết được vấn đề trong các tình huống tương tự, độc lập nhận ra chức năng mới của đối tượng, tìm kiếm và phân tích được các yếu tố của đối tượng trong các mối tương quan của nó, hay độc lập tìm kiếm ra giải pháp thay thế và kết hợp được các phương pháp đã biết để đưa ra hướng giải quyết mới cho một vấn đề. 2. Thực trạng của việc phát triển năng lực HS phổ thông qua các hoạt động trải nghiệm sáng tạo Hoạt động trải nghiệm ở trường phổ thông đang gặp phải nhiều bất cập, nhiều trường đang bị động, bối rối và gặp nhiều khó khăn. Tất cả các giáo viên đều chưa được tập huấn cụ thể về nội dung, cách thức tiến hành, trang bị những kiến thức căn bản về việc tổ chức cho trải nghiệm cho HS. Trong các giờ học trên lớp đâu đó vẫn còn lối truyền thụ một chiều, HS thụ động tiếp nhận kiến thức, chưa được vận dụng kiến thức giải quyết các tình huống thực tiễn, các vấn đề phức hợp mà nếu có là các vấn đề hoặc các tình huống giả định. Bản thân tôi là một giáo viên dạy môn Vật lý, mặc dù trong các giờ lên lớp đã rất cố gắng đưa các kiến thức có liên quan đến thực tiễn, các thí nghiệm thực 9 hành và biểu diễn giúp giờ học trực quan và sinh động hơn nhưng vẫn chưa khích lệ và khơi dậy được hứng thú, niềm đam mê của HS đối với môn học. Bên cạnh đó, khoảng thời gian 45 phút một tiết học trên lớp sẽ hạn chế tến trình để HS vận dụng kiến thức và sáng tạo. 3. Các giải pháp thực hiện Đề tài nghiên cứu được thực hiện đối với bộ môn Vật lý theo 4 giai đoạn Giai đoạn 1: Ươm mầm Giai đoạn 2: Thắp lửa Giai đoạn 3: Lan toả Giai đoạn 4: Phát triển quy trình 3.1.Giai đoạn 1:Ươm mầm. Trong các giờ học tại phòng đa năng, giáo viên hướng dẫn học sinh cách truy cập internet, giới thiệu cho học sinh các trang web có chuyên mục của bộ môn, hướng dẫn học sinh cách đăng kí, tìm kiếm thông tin và học tập từ các trang đó. Trong các giờ dạy trên lớp giáo viên tăng cường sử dụng các thiết bị thí nghiệm, giới thiệu mở rộng ví dụ thực tiễn kích thích hứng thú của học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên tổ chức cho học những hoạt động thi đơn giản theo định hướng STEM. 10 Giáo viên lựa chọn lớp dạy để ươm mầm cho các ý tưởng, từ đó các học sinh của lớp sẽ trở thành hạt nhân cho các hoạt động tiếp theo. Đối với những học sinh đã yêu thích môn học, giáo viên giao thêm các nhiệm vụ về nhà, cung cấp một số sách và tư liệu để học sinh chủ động tìm hiểu, báo cáo riêng để giáo viên duyệt, từ đó biến học sinh thành các chuyên gia thuyết trình về những thí nghiệm mà mình đã làm được. 3.2.Giai đoạn 2:Thắp lửa. Giáo viên phát động học sinh trong lớp tham gia dự án “Nhà sáng chế”: + Thiết kế sản phẩm, các thí nghiệm hoặc các đồ dùng học tập trong phạm vi kiến thức đã học, tham khảo từ các nguồn sách giáo khoa hoặc internet. +Học sinh đăng kí tham gia độc lập hoặc theo các nhóm + Viết báo cáo cho các ý tưởng thể hiện được: tên ý tưởng, dụng cụ , tiến hành, nêu được nguyên lý hoặc giải thích được kết quả. 11 Hình 1.2. Một số báo cáo của học sinh + Các ý tưởng hay được giáo viên lựa chọn để học sinh của nhóm tiến hành, tháo gỡ những khó khăn cho học sinh trong quá trình hoàn thiện sản phẩm Hình 1.3. Cả nhóm vẫn miệt mài dù trời đã tối Hình 1.4. Hì hục thử nghiệm cả ở trường và ở nhà 12 Hình 1.5. Hân hoan khi hoàn thành sản phẩm + Các tiêu chí đánh giá sản phẩm được giáo viên cung cấp thông qua phiếu đánh giá sản phẩm. STT Tiêu chí chấm Mô tả tiêu chí Điểm tối đa Điểm đạt được 1 Hình thức Ý tưởng mới lạ, hình thức độc đáo 30 N1 N2 N3 N4 N5 Màu sắc bố cục hài hòa 20 Trang trí hợp lí 20 2 Nội dung Kết cấu logic 20 Độ chính xác của thông tin 40 Trình bày dễ hiểu 30 Nhiều thông tin hay, bổ ích, lí thú 40 Tổng điểm 200 Các sản phẩm được lựa chọn được biểu diễn trước lớp để rà soát và chạy chương trình một cách thành thạo. Giáo viên yêu cầu các nhóm phải chuyển hóa sản phẩm của mình thành một bài toán đố để tạo ra thử thách cho HS toàn trường khi giải quyết được bài toán sẽ khắc sâu kiến thức và kĩ năng, tạo tính hấp dẫn đồng thời phát huy tính sáng tạo cho HS. * Sản phẩm “Quả trứng vàng”. - Không dùng tay tác động, hãy làm cho quả trứng đã luộc tự chui vào chai thủy tinh. - Giải pháp: Đốt giấy thả vào trong chai sau đó đặt trứng lên miệng chai, trứng sẽ bị hút vào trong chai. 13 - Giải thích: Khi đốt giấy thả vào bình sẽ gây ra sự chênh lệch áp suất trong và ngoài chai, khi đặt trứng trên nắp chai, sự cháy thiếu oxy nên lửa tắt làm áp suất trong bình giảm đi và hút khí từ bên ngoài kéo theo quả trứng vào trong chai. * Sản phẩm “Ống hút thần kì”. - Từ ống hút và chai nhựa, làm thế nào để ống hút có thể tự quay theo tay mà không cần dùng tay tác động trực tiếp đẩy ống hút. - Giải pháp: Cọ xát ống hút lên tóc hoặc vào len, dạ. - Giải thích: Ống hút bị nhiễm điện do cọ xát có khả năng hút các vật khác do đó chỉ cần đưa ngón tay đến gần có thể làm ống hút chuyển động theo. * Sản phẩm “Cối xay gió thần kì”. - Lon bia được cắt tạo thành những cánh như cối xay gió, chỉ với nến, làm thế nào để những cánh quạt có thể quay mà không dùng tay tác động hoặc dùng miệng thổi làm quạt quay. - Giải pháp: Dùng bút chì gắn trên đế làm trụ cho cánh quạt, dùng bốn cây nến đặt phía dưới các cánh quạt, khi thắp nến các cánh quạt sẽ tự động quay. * Sản phẩm: “Bập bênh nến” - Làm thế nào để cây nến có thể quay xung quang trụ là một cây đinh xuyên qua cây nến tạo thành bập bênh nến mà khôn dùng tay tác động - Giả pháp: Dùng cây đinh xuyên qua phần chính giữa cây nến, gá cây đinh lên hai chiếc cốc rồi đốt hai đầu nến, cây nến sẽ tự quay. - Giải thích: Khi nến cháy, do đối lưu, dòng khí nóng chuyển động lên trên, trọng lực kéo nến xuống làm nến mất thăng bằng, trọng lực tác dụng vào hai đầu nến tạo ra một ngẫu lực làm nến quay, mỗi lần sáp nến rơi xuống sẽ xuất hiện phản lực đẩy đầu nến lên, cứ như vậy cây nên sẽ chuyển động giống như bập bênh. * Sản phẩm “Ảo thuật với đồng xu” - Làm thế nào để lấy được đồng xu được để ngập trong đĩa nước ra mà không bị ướt tay, không được đổ nước trong đĩa đi chỉ với nến và cốc. - Giải pháp: Đặt nến vào đĩa sau đó úp cốc lên, toàn bộ lượng nước trong đĩa sẽ bị hút vào trong cốc làm hở đồng xu ra, ta hoàn toàn nhặt đồng xu trong đĩa mà không ướt tay. 14 - Giải thích: Nến cháy gây ra chênh lệch áp suất trong và ngoài cốc, hết oxy thì nến tắt làm nhiệt độ trong cốc giảm nhanh, áp suất trog cốc giảm nhanh kéo theo nước bị hút vào trong cốc. * Sản phẩm “Cắt thủy tinh bằng nước” - Dụng cụ: Khay nhỏ đựng nước, cốc thủy tinh, dầu ăn, đèn khò, lưỡi dao dọc giấy. - Tiến hành thí nghiệm: Co một lượng nước vào cốc thủy tinh rồi đặt vào khay, cho nước vào khay sao cho mức nước ở khay ngang bằng trong cốc, đổ từng lượng dầu nhỏ lên mặt nước, dùng đèn khò đốt nóng đỏ lưỡi dao dọc giấy rồi đặt nhẹ vào lớp dầu ăn, cốc sẽ bị tách đôi tại lớp ngăng cách nước và dầu ăn. - Giải thích: Sự chênh lệch nhiệt độ giữa lớp nước và dầu làm thủy tinh giãn nở và đứt gãy. *Sản phẩm “tên lửa nước”: - Tên lửa được chế tạo từ vỏ chai nhựa, ống nhựa và chuyển động dựa trên nguyên lý chuyển động bằng phản lực. *Sản phẩm “Quạt động cơ nhiệt” - Cánh quạt được tạo ra từ chai nhựa được gắn vào môtơ và lắp vào mạch điện. Mạch điện hở ở chỗ nối hai thanh thép. Dùng đèn cồn hơ nóng ở đoạn hở giữa hai thanh thép, nhiệt độ cao làm thanh thép giãn nở dài tiếp xúc với nhau khi đó mạch kín làm quạt quay. 3.3.Giai đoạn 3: Lan tỏa. Các thí nghiệm, sản phẩm hoàn chỉnh của các nhóm được lựa chọn để tham gia vào buổi ra mắt “Câu lạc bộ Vật lý vui” trước học sinh toàn trường. Giáo viên hướng dẫn để học sinh chủ động trong mọi hoạt động tổ chức, dẫn chương trình, ra mắt các thí nghiệm, sản phẩm của mình. Các hoạt động của các nhóm được thể hiện đầy lí thú lôi kéo học sinh toàn trường tham gia các trải nghiệm thú vị thông qua việc giải quyết các bài toán đố của các nhóm đặt ra. Ngoài việc vượt qua thử thách của các nhóm, học sinh còn phải giải thích kết quả dựa trên kiến thức đã học từ đó khắc sâu hơn kiến thức. 15 Hình ảnh các hoạt động của “Câu lạc bộ Vật lý vui”-lần thứ nhất 3.4. Giai đoạn 4: Phát triển quy trình 3.4.1. Ngày hội trải nghiệm sáng tạo Sau chuyên đề thành công của Câu lạc bộ Vật lý, Nhà trường đã lên kế hoạch tổ chức ngày hội trải nghiệm sáng tạo quy mô toàn trường với sự góp mặt của các bộ môn Toán – Lý – Hóa và nhó m sáng tạo. Câu lạc bộ Vật lý vui đã đóng vai trò nòng cốt trong tất cả các hoạt động trải nghiệm do nhóm Vật lý phụ trách. Ngày hội đã mang lại ấn tượng mạnh mẽ cho học sinh toàn trường, các đoàn khách mời của Sở và các trường trong cụm. 16 Để thực hiện ngày hội trải nghiệm, tôi vẫn tiếp tục phát động dự án “Nhà sáng chế” đến tất cả học sinh trong câu lạc bộ, học sinh lên ý tưởng viết báo cáo. Trên cơ sở đó tôi lựa chọn những ý tưởng thiết thực với chương trình học và gần gũi cuộc sống, khả thi, độc đáo và có tính sáng tạo. 17 Trong ngày hội, nhóm Vật lý đã tổ chức thành 6 khu vực chơi: Khu vực đua thuyền chun: Từ chun, xốp, que kem và keo nến học sinh lắp thành chiếc thuyền chun và sẽ được tổ chức để đua với nhau Khu vực nhà sáng chế tập sự: Từ các môtơ 3V, 12V, đây nối, pin, lon, chai nhựa học sinh sẽ thiết kế thành các mô hình chuyển động được. Khu vực café sáng tạo: học sinh được bốc thăm một câu hỏi yêu cầu đo đạc các vật đơn giản hoặc tiến hành các thí nghiệm vật lý bằng các vật dụng cho trước. Khu vực kỹ sư điện tử: Học sinh được tìm hiểu sơ đồ nguyên lý và sau đó hàn mạch hạ áp bằng tụ và chỉnh lưu 4 Điốt từ 220V xuống 6V hoặc 12V, sơ đồ nguyên lý của mạch cảm biến ánh sáng sử dụng tranzitor C1815. Khu vực Robot: Học sinh được hướng dẫn đặt lệnh với Robot rồi thực hiện yêu cầu lập trình để Robot đi được đoạn đường cho trước. Khu vực trải nghiệm: Gian trưng bày các sản phẩm để học sinh đến chơi và trải nghiệm: tên lửa nước, máy phát điện Van de Graff, trò chơi bắn bóng, máy bay, máy hút bụi, máy chiếu phim 3D. Một số hình ảnh ngày hội trải nghiệm của góc Vật lý 3.4.2. Chuyên đề Câu lạc bộ Vật lý vui – lần thứ 2. Chuyên đề lần 2 của Câu lạc bộ Vật lý vui cũng đã diễn ra thành công nhằm duy trì hoạt động của Câu lạc bộ và biến các hoạt động trải nghiệm bộ môn Vật lý thành một hoạt động gần gũi, hấp dẫn thu hút sự yêu thích của học sinh toàn trường cũng như niềm đam mê, sự sáng tạo cho các thành viên Câu lạc bộ. 18 Chuyên đề đã giới thiệu các sản phẩm: Putty Slime, cánh tay thủy lực, cần nâng thủy lực, đài phun nước bằng chai nhựa, khung dây quay quanh pin. Đồng thời đã tổ chức cho các học sinh ở các lớp tham gia trò chơi trải nghiệm: dựng tháp bền vững từ giấy A4 và băng dính tham gia thi chịu được sức gió từ quạt, chế tạo máy bắn đá tham gia thi máy bắn xa nhất. Một số hình ảnh Chuyên đề Câu lạc bộ Vật lý vui – lần thứ 2 4. Kết quả thực nghiệm. Đối với những thành viên hạt nhân của Câu lạc bộ, các em đã thể hiện mình hết sức tự tin ở sân chơi toàn trường rộng hơn lớp học quen thuộc. Từ hứng thú với môn học, các em càng đam mê hơn và mong muốn lan tỏa ra phạm vi toàn trường. Các em đã tự tin dẫn dắt trò chơi, thao tác thành thạo và lí giải các hiện tượng một cách nhuần nhuyễn, khoa học, chính xác. Từ đó, các em càng có động lực, hứng thú hơn với môn học, chủ động chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng, tìm tòi và sáng tạo hơn. Đối với HS toàn trường, các em đã được tham gia vào các thử thách cần phải tổng hợp kiến thức để giải quyết từ đó khắc sâu và chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ năng. Các thử thách được các em sẵn sàng tiếp nhận và hăng hái giải quyết không áp lực bị đánh giá như giờ học trên lớp. Sự hứng thú đã được lan tỏa mạnh mẽ từ các nhóm hạt nhân ra HS toàn trường do người truyền lửa không phải là những người thầy mà là những người bạn cùng trang lứa. Đối với tổ chuyên môn, ngày hội đã tạo ra nhiều đồ dùng phục vụ cho dạy học, từ đó làm các tiết học thêm sinh động, trực quan, thu hút HS hơn. Đối với đồng nghiệp trong toàn trường, hoạt động trải nghiệm đã để lại những ấn tượng tốt, có sức lan tỏa. Sau buổi trải nghiệm các tổ chuyên môn khác 19 cũng có những ý tưởng để xây dựng các hoạt động trải nghiệm cho HS của tổ nhóm mình. Hoạt động trải nghiệm đã diễn ra thành công cả về mặt tổ chức với sự hỗ trợ của tổ chuyên môn, đồng thời còn thành công cả về mặt kinh phí tổ chức vì các sản phẩm trải nghiệm đều chủ yếu tận dụng phế liệu, vỏ chai nhựa và vỏ lon. C. KẾT LUẬN Qua hoạt động trải nghiệm, học sinh yêu thích bộ môn hơn, dần hình thành niềm đam mê, tìm tòi, nghiên cứu khoa học; phát huy được các phẩm chất: chăm chỉ, trách nhiệm. Đồng thời, phát huy tốt các năng lực: năng lực tự chủ và tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực công nghệ, năng lực thẩm mỹ, năng lực tính toán, năng lực ngôn ngữ, năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội. • Tính hiệu quả, khả thi Các sản phẩm được chọn đưa ra trải nghiệm đều dễ làm, an toàn, tận dụng được từ nguồn phế liệu, đồ cũ nên không tốn nhiều kinh phí. Các kết quả thực nghiệm đều được giải thích dựa trên các kiến thức HS được học trong chương trình. • Tính đổi mới: Học sinh không còn thực hiện các thí nghiệm, các hoạt động dưới sự dẫn dắt của giáo viên mà được đưa ra ý tưởng, lập kế hoạch, thiết kế, tìm hiểu, trở thành các nhà quản trò thực sự nhuần nhuyễn, tự thiết kế các thí nghiệm và tự tìm cách lý giải các thí nghiệm. • Tính sáng tạo: Các thí nghiệm hoặc sản phẩm học sinh làm được chuyển hoá thành các bài toán đố trong ngày hội trải nghiệm để thử thách học sinh toàn trường, từ đó học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng. • Tính độc đáo: Mặc dù thuộc về kiến thức khoa học nhưng học sinh có thể tự xây dựng ý tưởng, những ý tưởng này dưới sự hướng dẫn của giáo viên được hoàn thiện và lan toả đến giáo viên và học sinh toàn trường. Các thử thách đưa ra dưới hình thức những trò chơi khiến học sinh hứng thú và chủ động vượt qua từ đó chiếm lĩnh kiến thức và kĩ năng. 20 D. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT • Đối với nhà trường - Nhà trường chỉ đạo thành lập Câu lạc bộ trải nghiệm sáng tạo trong nhà trường, tại đây học sinh được tham gia trải nghiệm với nhiều lĩnh vực khác nhau và hỗ trợ kinh phí cho các hoạt động của Câu lạc bộ. - Tổ chức thường niên ngày hội trải nghiệm sáng tạo trong trường với nhiều hình thức: + Tích hợp nhiều bộ môn trong nhà trường, mỗi khu vực do một bộ môn phụ trách. + Phối hợp với các trường trong khu vực tổ chức các ngày hội trải nghiệm cấp cụm. • Đối với cấp trên - Cung cấp thêm tài liệu, học liệu về mô hình giáo dục STEM cho các nhà trường để giáo viên tự bồi dưỡng. - Tăng cường tập huấn cho giáo viên về kiến thức, kĩ năng, nội dung và cách thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm sáng tạo định hướng STEM. - Tổ chức những ngày hội trải nghiệm quy mô lớn để nhà trường có cơ hội trải cho giáo viên và HS được trải nghiệm 21 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Văn Bình – Đỗ Hương Trà, Dạy và học tích cực một số phương pháp và kĩ thuật dạy học, NXB Đại học Sư phạm, 2017. 2. PGS.TS. Huỳnh Văn Sơn, Phương pháp dạy học phát triển năng lực học sinh phổ thông, NXB Đại học Sư phạm TPHCM, 2017. 3. Nguyễn Ngọc Hưng, Thí nghiệm Vật lý với dụng cụ tự làm từ chai nhựa và vỏ lon-Tập 1, NXB Đại học Sư phạm, 2016. 4. Nguyễn Ngọc Hưng, Thí nghiệm Vật lý với dụng cụ tự làm từ chai nhựa và vỏ lon-Tập 2, NXB Đại học Sư phạm, 2016. 5. Nguyễn Ngọc Hưng, Thí nghiệm Vật lý với dụng cụ tự làm từ chai nhựa và vỏ lon-Tập 2, NXB Đại học Sư phạm, 2016. 6. B.F.Bilimovich, Trò chơi Vật lý trong trường phổ thông, NXB Đại học Quốc Gia, 2004. 7. TS.Ngô Thị Tuyên, Hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong chương trình giáo dục phổ thông mới, https://namdinh.violet.vn.
File đính kèm:
- SKKN Phat trien nang luc HS thong qua hoat dong trai nghiem sang tao Dat loai Bt_12668668.pdf