Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ

Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự bùng nổ của công nghệ thông tin trên phạm vi toàn cầu đang đặt loài người hòa trong xu hướng phát triển của nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức và một xã hội mới ở tầm cao hơn dựa vào nguồn thông tin và tri thức.Vì lẽ đó mà cải cách giáo dục luôn là đòi hỏi cấp bách nhằm tạo ra những con người tài năng, trí tuệ. Vấn đề cốt lõi của cải cách giáo dục là đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy. Trong đó đổi mới phương pháp dạy học là yếu tố quyết định đến sự thành công của một giờ học, tạo niềm hứng thú, say mê cho học sinh.

Đã có rất nhiều đề tài nói về phương pháp giảng dạy các biện pháp nghệ thuật tu từ trong bộ môn Ngữ văn song chủ yếu thiên về khai thác các khái niệm tu từ và các dạng bài tập chung chung chưa đi sâu vào phân tích giá trị biểu đạt, vận dụng các biện pháp NTTT vào tìm hiểu và tạo lập văn bản nên học sinh còn mơ hồ, chưa viết được đoạn văn, bài văn cảm thụ.

Điểm mới của đề tài tôi đang nghiên cứu là ở chổ: Tôi vận dung phương pháp dạy văn theo quan điểm tích hợp, tức là trong quá trình dạy học sinh phân tích giá trị của các biện pháp nghệ thuật tu từ tôi kết hợp chặt chẽ ở ba phân môn văn- tập làm văn- tiếng việt. Trên cơ sở vừa cung cấp cho học sinh một số tri thức về tiếng việt (các từ loại, các biện pháp NTTT.) vừa rèn cho các em khả năng tư duy theo hướng nhận thức, rèn năng lực thực hành như: vận dụng các biện pháp tu từ vào viết đoạn văn, phát huy khả năng cảm thụ thơ, văn, phân tích, bình giảng văn học qua phân môn đọc hiểu văn bản. Đồng thời bồi đắp cho các em năng lực viết bài tập làm văn theo hướng sáng tạo, hiểu và cảm thụ văn học một cách sâu sắc hơn.

Việc áp dụng phương pháp mới này trong dạy học của bản thân và đồng nghiệp đã có nhiều sự thay đổi theo chiều hướng tích cực.

 

doc19 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2574 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy năng lực cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 thông qua một số biện pháp nghệ thuật tu từ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t tu từ ẩn dụ, chỉ ra được các từ ngữ, hình ảnh ẩn dụ đặc sắc sau đó phân tích giá trị biểu cảm của các hình ảnh được ẩn dụ và hình thành một đoạn văn hoặc bài văn cảm thụ.
 * GV định hướng học sinh làm bài, kết hợp uốn nắn, sửa chữa:
Câu thơ trên nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ ẩn dụ rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh mặt trời là vầng thái dương ( nghĩa đen) tác giả đã tạo ra một hình ảnh so sánh ngầm sâu sắc, tế nhị giúp người đọc hình dung ra hình ảnh Bác Hồ (nghĩa bóng) là một con người rực rỡ, ấm áp như ánh mặt trời xua tan màn đêm nô lệ, soi sáng và dẫn dắt dân tộc Việt Nam ta suốt những năm tháng chống Pháp, chống Mỹ và tiến lên chủ nghĩa xã hội.Thông qua hình ảnh ẩn dụ này tác giả bộc lộ tình cảm yêu mến, khâm phục vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Từ ví dụ đó, giáo viên giúp các em hiểu được khi sử dụng nghệ thuật ẩn dụ hợp lý sẽ tạo cho sự vật trở nên sinh động, gợi hình ảnh biểu cảm. Qua đó giáo dục các em biết vận dụng biện pháp ẩn dụ vào viết văn miêu tả làm cho câu văn, bài văn hay và sáng tạo hơn.
 d, Phép tu từ hoán dụ
Giúp các em hiểu thế nào là nghệ thuật hoán dụ. Biết tìm những câu văn, thơ có sử dụng nghệ thuật hoán dụ .Từ đó hiểu được tác dụng của việc sử dụng phép tu từ hoán dụ trong văn, thơ. 
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên của một sự vật, hiện tượng, khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi hình, gợi cảm cho sự diễn đạt.
 Ví dụ 1: “Bàn tay ta làm nên tất cả
 Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” 
* Học sinh xác định được : 
 Nghệ thuật được sử dụng : Nghệ thuật hoán dụ 
Hình ảnh ẩn dụ : 
+ Bàn tay: chỉ sức lao động của con người
+ Sỏi đá: chỉ những gian khổ, khó khăn	
+ Cơm: chỉ những thành quả đạt được.
* GV định hướng học sinh cảm nhận được : Hai câu thơ nêu lên mối quan hệ nhân quả, đúng quy luật. Bằng nghệ thuật hoán dụ đặc sắc tác giả đã lấy bộ phận “ bàn tay” để nói đến “sức lao động của con người” . Chính con người và sức lao động của họ chứ không phải cái gì khác đã góp phần cải tạo thiên nhiên, vượt qua mọi vất vả, gian khó biến “sỏi đá” thành “cơm” mang lại cuộc sống ấm no và hạnh phúc . Đây là một lời khẳng định, hơn thế nữa là một lời ca ngợi vai trò, tác dụng to lớn về sức lao động của con người trong việc chinh phục thiên nhiên tạo ra những thành quả có giá trị phục vụ cho cuộc sống.
 Ví dụ 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh cảm thụ nâng cao bằng những đoạn văn, bài văn có sử dụng nghệ thuật hoán dụ.
Đề bài : Tìm và phân tích giá trị biểu cảm của biện pháp tu từ trong đoạn thơ: 
 “ Áo chàm đưa buổi phân li
 Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.
 * Yêu cầu trả lời: Phát hiện được biện pháp nghệ thuật tu từ hoán dụ, chỉ ra được các từ ngữ, hình ảnh hoán dụ đặc sắc sau đó phân tích giá trị biểu cảm của các hình ảnh được hoán dụ và hình thành một đoạn văn hoặc bài văn .
* GV định hướng học sinh làm bài kết hợp uốn nắn, sửa chữa:
Những câu thơ như những âm thanh đồng vọng đã tái hiện được hình ảnh lưu luyến, bịn rịn trong cuộc chia li giữa người ở lại và người ra đi. Chỉ với hai dòng thơ mà nhà thơ Tố Hữu đã diễn tả được trạng thái của tâm hồn con người một cách cụ thể, sâu sắc. Hình ảnh “ áo chàm” là một hình ảnh để lại nhiều ấn tượng về sự độc đáo, đó là hình ảnh tả thực vừa là hình ảnh hoán dụ, tượng trưng. Đồng bào các dân tộc Việt Bắc thường mặc áo nâu chàm, một thứ màu giản dị của những con người vốn hiền lành, chất phác nhưng son sắt thủy chung, nặng ân tình. Màu chàm rất bền, ít phai, do đó Tố Hữu đã mượn ý nghĩa của màu chàm bền chặt để chỉ tình cảm của con người cũng bền chặt thủy chung. Cảm xúc như vỡ òa cùng những giọt nước mắt nghẹ ngào. Cuộc chia tay giữa người ra đi và người ở lại trong câu thơ của Tố Hữu cho ta hình dung một tình cảm lặng lẽ nhưng bình dị, tha thiết.
Từ các ví dụ đó, giáo viên định hướng cho các em khi sử dụng nghệ thuật hoán dụ hợp lý sẽ tạo cho sự vật trở nên sinh động, gợi hình, gợi cảm, nêu bật được những đặc điểm của người, sự vật được nói đến. Qua đó giáo dục các em biết vận dụng biện pháp hoán dụ vào viết văn miêu tả làm cho câu văn, bài văn hay và sáng tạo hơn.
2.3.2. Rèn luyện kỹ năng đặt câu, viết đoạn văn, bài văn có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ.
Đây là một trong những yếu tố cần thiết đối với mỗi học sinh khi viết bài tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả. Việc vận dụng linh hoạt các biên pháp nghệ thuật đã được học vào các bài viết tập làm văn sẽ góp phần giúp các em phát huy tối đa năng lực cảm thụ văn học, đồng thời làm cho bài viết trở nên sinh động và sáng tạo hơn. Mỗi một câu văn, đoạn văn giáo viên cần định hướng, kích thích các em tìm, viết những lời văn hay, cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hoá...sử dụng những từ láy gợi hình gợi cảm để diễn đạt .
 Câu văn, đoạn văn cần được diễn đạt một cách hồn nhiên, trong sáng và bộc lộ cảm xúc chân thành; biết vận dụng linh hoạt, khéo léo các biện pháp nghệ thuật tu từ, cần tránh mắc các lỗi về chính tả, dùng từ, đặt câu; tránh diễn giải dài dòng hoặc sa vào phân tích quá kĩ. 
* Rèn kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi cảm, giàu hình ảnh và nhạc điệu:
Muốn viết được câu văn hay, ngoài việc dùng từ chính xác, câu văn cần phải có hình ảnh. Có hình ảnh, câu văn sẽ có màu sắc, đường nét, hình khối,...
Để câu văn có hình ảnh, cần lưu ý hướng dẫn HS sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, ẩn dụ ...Các hình thức nghệ thuật này sẽ làm cho câu văn trở nên sinh động hơn rất nhiều.
Việc rèn kĩ năng diễn đạt trong bài miêu tả cảnh cần đặc biệt chú ý đến việc sử dụng phép so sánh trong mỗi câu văn. Có thể coi so sánh là việc tạo những nốt luyến cho bản nhạc ngôn từ, những nét đậm cho bức tranh ngôn ngữ. Giáo viên cần hướng cho học sinh luyện tập cách dùng nhiều từ so sánh khác nhau sao cho thật đa dạng, phong phú, gợi cảm. 
Ví dụ:	
 - Những lá sen già khum khum chẳng khác những chiếc thúng con đựng đầy ắp nắng chiều thu.
- Cây bàng già sừng sững uy nghiêm như một người lính gác canh giữ cho khu vườn được bình yên.
- Dòng sông quê dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình.
- Vầng trăng non giữa bầu trời đầy sao hệt như một cái liềm vàng ai bỏ quên giữa cánh đồng lúa chín. ( Theo Vích-to Huy-gô)
Ngoài ra cũng cần cho học sinh rèn kĩ năng sử dụng phép nhân hóa, ẩn dụ trong diễn đạt để tạo sự sinh động, hấp dẫn cho cảnh được tả.
Ví dụ: Giáo viên đưa ra một số câu văn miêu tả, yêu cầu học sinh viết lại có phép nhân hóa.
 - Về mùa hè nước sông trong xanh màu ngọc bích -> Về mùa hè dòng sông khoác lên mình một chiếc áo màu xanh ngọc bích.
 -Bông hoa hồng xinh đẹp. ->Bông hoa hồng xinh đẹp đang tươi cười và thì thầm toả hương thơm.
- Với cùng một nội dung thông báo, cùng sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hóa song với mỗi cách viết lại có một cách hiểu khác nhau.
Ví dụ: Với nội dung: Con sông chảy qua một cánh đồng, ta có thể diễn tả bằng nhiều cách như sau :
- Con sông nằm uốn khúc giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp thuần tuý).
- Con sông khoan thai nằm phơi mình trên cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp khoẻ khoắn).
- Con sông hiền hoà chảy qua cánh đồng xanh mướt lúa khoai. ( Vẻ đẹp hiền hoà).
- Con sông lặng lẽ dấu mình giữa cánh đồng xanh mướt lúa khoai. (Vẻ đẹp trầm tư).
Như vậy, ý của câu văn hoàn toàn phụ thuộc vào ngụ ý của người viết.Với mỗi một cách diễn đạt khác nhau lại cho một giá trị biểu cảm khác nhau.
*Rèn kĩ năng viết đoạn văn 
Cái hay của một đoạn văn thể hiện rõ nét nhất ở ý. Ý càng mới mẻ, càng sâu sắc, độc đáo thì đoạn văn càng có sức thuyết phục. Ý phải diễn đạt thành lời. Ý hay mà không biết cách diễn đạt thì lời văn trở nên sáo rỗng. Lời văn hay là lời văn chân thành, trong sáng, giản dị, có hình ảnh, có âm thanh, có nhạc điệu,...và có cách sắp xếp (bố cục) chặt chẽ. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ vào bài làm. 
Trên cơ sở rèn luyện kĩ năng đặt câu, giáo viên định hướng cho học sinh viết đoạn văn miêu tả có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ thông qua một số bài tập cụ thể. 
Bài 1: Hãy viết một đoạn văn (từ 5-7 câu) tả cảnh hoặc tả cây cối có sử dụng các biện pháp tu từ đã học, có câu mở đầu là:
a) Mỗi khi mùa xuân về...
b) Mùa hè sang...
c) Thu đến...
d) Khi trời chuyển mình sang đông...
Sau khi học sinh viết xong đoạn văn, giáo viên tiến hành chấm chữa bài và cung cấp một số đoạn văn hay để học sinh tham khảo.
Đoạn văn tham khảo
a) Mỗi khi mùa xuân về, những búp bàng cựa mình chui ra khỏi những nhánh khô gầy, khẳng khiu sau cả mùa đông dài ấp ủ dòng nhựa nóng. Chỉ qua một đêm thôi, những chồi xanh li ti đã điểm tím hết cành to, cành nhỏ. Và rồi từng ngày những chồi xanh ấy lớn nhanh như thổi, mỗi lúc mỗi khác. Cái màu xanh mượt mà, cái sức sống quyết liệt ấy đã gợi mở rất nhiều điều mới lạ trong tôi. (Sử dụng biện pháp nhân hoá)
b) Mùa hè sang, cành trên cành dưới chi chít lá. Tán bàng xoè ra như một chiếc ô khổng lồ, nhiếu tầng nhiều bậc chiếm lĩnh không gian. Dưới cái ô khổng lồ màu ngọc bích ấy, không biết bao nhiêu người khách qua đường đã dừng lại nghỉ chân. Hiền lành và trầm tư, ngày qua ngày, cây bàng vẫn bền bỉ dang rộng vòng tay giúp ích cho đời. ( Sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá)
c) Thu đến, những chiếc lá bàng cứ đỏ dần lên theo từng nhịp bước heo may. Cây bàng lại trang điểm cho mình một bộ cánh mới. Bộ cánh đó cứ đậm dần lên sau từng đêm thao thức. Đến cuối thu thì nó chuyển hẳn sang màu đỏ tía. Cái màu đỏ ấy không thể thấy ở bất cứ loài cây nào. ( Sử dụng biện pháp nhân hoá, ẩn dụ. )
d) Khi trời chuyển mình sang đông, cây bàng bắt đầu trút lá. Những chiếc lá bàng lay động như những ngọn lửa đỏ bập bùng cháy. Rồi chỉ một cơn gió nhẹ, những ngọn lửa đỏ ấy chao liệng rồi đua nhau rớt xuống. Chỉ qua một đêm thôi, mặt đất đã được trang điểm một tấm thảm đỏ được dệt bằng những chiếc lá bàng. Kì diệu thay những chiếc lá! Đã rụng rồi mà vẫn toát lên vẻ đẹp đến mê say. ( Sử dụng biện pháp so sánh, ẩn dụ)
Bài 2: Có một nhà văn đã viết: “ Trăng là cái liềm vàng giữa đống sao. Trăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm nhung da trời. Trăng tỏa mộng xuống trần gian. Trăng tuôn suối mát để những tâm hồn khao khát ngụp lặn”.
Dựa vào hiểu biết về bầu trời, ánh trăng em hãy viết một đoạn văn tả cảnh đẹp của bầu trời đêm trung thu có sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa.
Đoạn văn tham khảo.
Vầng trăng vàng thẳm đang từ từ nhô lên sau lũy tre làng xanh thẫm. Trăng tuôn chảy những ánh vàng trên khắp làng quê, trăng dào dạt cùng sóng lúa, trăng tắm đẫm rặng tre rì rào trong gió. Trăng lẫn trốn trong tán lá xanh rì rào của cây đa đầu thôn. Trăng lai láng trong vườn chuối dõi theo mấy cô cậu tí hon đang chơi trận giả. Trăng đi đến đâu nơi ấy bừng lên tiếng cười rộn rã. Trăng tinh nghịch đậu vào ánh mắt của các anh chị thanh niên. Trăng vờn lên má các em thiếu nhi. Trăng ôm ấp mái tóc bạc phơ của các cụ già. Trăng đẹp xiết bao! Trăng ùa vào lòng người khơi dậy tình yêu cuộc sống.
* Rèn kĩ năng viết bài văn:
 Trên cơ sở rèn kĩ năng đặt câu, viết đoạn văn có sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ đã học, tôi hướng dẫn cho các em vận dụng vào viết hoàn chỉnh một bài làm văn. Kĩ năng này được vận dung thực hiện trong nhiều tiết viết bài TLV ở nhà và ở lớp. Ngoài ra có thể lồng ghép vào các tiết thực hành luyện đề cụ thể...
 2.3.3. Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với văn thơ.
 Để giúp các em cảm thụ tốt văn học người thầy giáo phải làm cho học sinh có hứng thú và niềm say mê học văn. Không yêu thích văn học thì tâm hồn người học sinh không thể rung động được trước vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp tâm hồn nhà văn. Trau dồi hứng thú khi tiếp xúc với thơ văn chính là giúp các em tự rèn luyện mình để có nhận thức đúng, tình cảm đẹp, từ đó đến với văn học một cách tự giác và say mê. Khi gặp bất kì tác phẩm văn học nào tự bản thân các em sẽ phải trăn trở, suy tư và luôn hướng tâm hồn, tình cảm của mình đến với tác phẩm. Để làm tốt điều này đòi hỏi mỗi giáo viên qua từng bài giảng cần có giọng đọc diễn cảm, lời bình hay và luôn luôn đổi mới phương pháp dạy học để lôi cuốn học sinh vào những áng văn thơ, làm cho các em thích được tiếp xúc và gần gũi với văn thơ.
 2.3.4. Bồi dưỡng vốn ngôn ngữ
Muốn cảm thụ văn học tốt học sinh phải có vốn ngôn ngữ. Vốn ngôn ngữ bao gồm sự hiểu biết giá trị của âm, từ ngữ, hình ảnh, câu, thanh điệuBởi ngôn ngữ chính là phương tiện, dụng cụ để hiểu, cảm thụ viết văn. Học sinh càng giàu vốn ngôn ngữ càng có khả năng cảm thụ sâu sắc hơn vẻ đẹp của câu, chữ, càng thấy được cái khéo, cái hay, cái tài của nhà văn. Muốn phong phú vốn từ giáo viên cần hướng dẫn cho các em phải biết tích lũy ngôn ngữ từ việc đọc, nghe, nói và có thói quen ghi nhớ để bổ sung vốn từ. Từ đó khi cần sẽ biết sử dụng, lựa chọn để hiểu, để cảm nhận được ngôn từ mà nhà văn đã dùng. 
 Ví dụ trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà thơ Huy Cận có câu:
“ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.
Chữ “ em” trong câu thơ quả là thần kì. Ở đây ta có thể hiểu “em” là từ dùng với phép nhân hóa để chỉ các loài cá: Nhụ, chim, đé. Cách gọi thân thương, gần gũi này đã nâng loài cá lên thành con người có tâm hồn và tình cảm. Phép nhân hóa làm cho câu thơ có hồn và có sức hấp dẫn kì lạ. Giữa con người và biển cả trở nên thân thiết và gắn bó biết bao. 
 Do vậy nếu không có vốn ngôn ngữ chắc gì chúng ta thấy được cái hay, cái đặc sắc của thơ văn.
 2.3.5. Tích lũy vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống và văn học.
 Cảm thụ văn học là quá trình nhận thức có ảnh hưởng bởi vốn sống của mỗi người. Cảm thụ văn học diễn ra ở mỗi người không hoàn toàn giống nhau do nhiều yếu tố như: Vốn sống, vốn hiểu biết, năng lực và trình độ kiến thức, yếu tố di truyềnTình cảm và thái độ khi tiếp xúc với văn học được thể hiện qua hoạt động và quan sát cuộc sống hằng ngày.
Trong các giờ học bộ môn Ngữ văn đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn chú ý đến việc liên hệ thực tế cuộc sống với văn học giúp các em hình thành được kĩ năng vận dụng thực tế cuộc sống với văn học, đồng thời qua đó giúp các em tích lũy được vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống với văn học.
Nhớ lại quãng đời học văn tuổi nhỏ, giáo sư Lê Trí Viễn đã rút ra nhận xét quí báu: “Trong thơ văn hay chữ nghĩa ngoài cái gọi là nội dung giao tiếp thông thường của nó, còn có vốn sống của cuộc đời nghìn năm bồi đắp lại”.
Do vậy bên cạnh vốn hiểu biết về thực tế cuộc sống, các em còn cần tích lũy cả vốn hiểu biết về văn học thông qua việc đọc sách báo thường xuyên. Từ đó giúp các em mở rộng tầm nhìn cuộc sống, khơi sâu những suy nghĩ và cảm xúc, góp phần khơi dậy năng lực cảm thụ văn học.
 Có thể thấy qua quá trình dạy học của bản thân, tôi đã sử dụng các giải pháp trên vào đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy năng lực sáng tạo, chủ động của học sinh cũng như góp phần nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Ngữ văn 6 . Sau khi đề ra một số biện pháp thực hiện như vậy và để kiểm nghiệm hiệu quả của các giải pháp trên, tôi đã tiến hành kiểm tra kết quả học tập của học sinh. Các em làm khá tốt, số lượng học sinh khá giỏi tăng. Sau đây là bảng đối chứng về kết quả học tập của các em.
 a. Học sinh yêu thích môn học
Yêu thích: 46%	Bình thường: 48,7%	Không thích: 5,3 %
Kết quả khảo sát chất lượng:
TT
Lớp
Sĩ số
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
1
6a
35
05
14,3
13
37,1
12
34,3
05
14,3
2
6B
36
04
11,1
12
33,3
14
38,9
06
16,7
Tổng
71
09
12,7
25
35,2
26
36,6
11
15,5
Như vậy để giúp học sinh yêu thích môn học, rèn luyện tốt kĩ năng cảm thụ văn học là một việc làm đòi hỏi tất cả giáo viên dạy lớp đầu cấp phải có lòng kiên trì không được nóng vội. Bởi vì có những học sinh tiến bộ ngay trong vài tuần nhưng cũng có những học sinh sự tiến bộ diễn ra rất chậm, không phải vài tuần mà có khi vài tháng, thậm chí cả học kì. Nếu giáo viên không biết chờ đợi, nôn nóng thì khó thành công.
 3. KẾT LUẬN
 3.1. Ý nghĩa đề tài
 Trong suốt quá trình vận dụng, khai thác các biện pháp nghệ thuật tu từ vào việc cảm thụ văn học tôi nhận thấy các em chăm chú theo dõi, hào hứng phát biểu bài, khi viết bài đạt được kết quả cao. Hầu hết các em đã biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ đã được học vào bài viết, khả năng cảm thụ văn học được nâng lên, câu văn thể hiện được cảm xúc, trình bày lô gíc khoa học. Các bài tập ứng dụng các em đều làm tốt, có sự sáng tạo theo cách cảm nhận của riêng mình. Ban đầu các em rất ngại tiếp xúc với văn thơ nhưng giờ đây các em rất có hứng thú tiếp xúc với văn thơ để được cảm nhận cái hay, cái đẹp trong văn thơ, từ đó các em tích luỹ được vốn hiểu biết về văn thơ giúp các em thêm yêu cuộc sống, yêu quê hương đất nước.
Quả thật học văn, làm văn là một năng lực tổng hợp, là quá trình bền bỉ dày công học tập, trau dồi lâu ngày, đó là chưa nói đến năng khiếu. Song dù có năng khiếu ít hay nhiều thì sự nhẫn nại, kiên trì rèn luyện trong học tập vẫn là con đường dẫn đến sự thành công lớn nhất.
Với phương pháp phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp nghệ thuật tu từ trong văn thơ cũng chỉ là một cách trong rất nhiều cách để khám phá ra vẻ đẹp muôn màu muôn sắc và giá trị cao đẹp đầy tính nhân văn mà các tác giả muốn gửi gắm qua từng trang viết, giúp các em có hứng thú hơn với môn văn và trong cả quá trình học văn.
Tôi hy vọng với một số giải pháp nêu trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng cảm thụ văn học cho học sinh lớp 6 nói riêng và các lớp tiếp nối ở THCS nói chung.
3.2. Những kiến nghị, đề xuất.
Nâng cao trình độ, năng lực cảm thụ văn học cho học sinh là một việc
làm khó, đòi hỏi người giáo viên ngoài lòng kiên trì, chịu khó thì phải có trình độ, năng lực tốt. Phải thường xuyên kích thích hứng thú cho học sinh tiếp xúc với thơ văn. Đồng thời kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thường xuyên hơn để có biện pháp khắc phục và uốn nắn kịp thời. 
 Cụ thể: Khi dạy các phép tu từ giáo viên cần tăng cường luyện tập, thực hành cho học sinh nhiều hơn, rèn cho các em kĩ năng nhận biết, phân tích giá trị biểu cảm của các biện pháp NTTT góp phần làm nổi bật giá trị nội dung và tư tưởng mà tác giả muốn thể hiện. Bên cạnh đó, trong các giờ đọc hiểu văn bản giáo viên cần chú trọng phát hiện và khai thác tốt các ngữ liệu có sử dụng các biện pháp NTTT, từ đó hướng học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp về giá trị nội dung, nghệ thuật mà tác phẩm mang lại. Từ những hiểu biết về cách nhận biết, cách tìm giá trị nghệ thuật, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng thường xuyên vào việc tạo lập văn bản trong các tiết viết bài TLV, đặc biệt là văn miêu tả.. hoặc có thể vận dụng trong giao tiếp hàng ngày để lời văn, lời nói giàu hình ảnh và tính biểu cảm cao.
Ngoài ra về phía nhà trường cần trang bị thêm các tài liệu và đồ dùng phục vụ tốt nhất cho việc dạy học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.
Đối với các đồng chí phụ trách chuyên môn cần tạo điều kiện mở thêm những lớp chuyên đề hoặc phổ biến những kinh nghiệm giảng dạy, những sáng kiến kinh nghiệm hay để anh chị em giáo viên có cơ hội học tập, nâng cao tay nghề.
Tóm lại với nhận thức của mình trong thời gian ngắn, tôi đã nổ lực, tìm tòi, suy nghĩ và đúc rút kinh nghiệm qua quá trình dạy học của mình. Có thể những quan điểm dạy học đã nêu ra chưa hẳn là giải pháp tối ưu và không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến xây dựng của bạn bè, đồng nghiệp và hội đồng chuyên môn đánh giá bổ sung để đề tài của tôi hoàn thiện hơn, có giá trị hơn trong thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn Ngữ văn ở THCS.
Xin chân thành cảm ơn !
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
 [1] Bộ sách Ngữ văn 6 NXB Giáo dục 
[2] Nguyễn Thị Mai Hoa – Đinh Chí Sáng : Một số câu hỏi và bài tập nâng cao Ngữ văn 6 NXB Giáo dục.
[3] Tạ Đức Hiền – Nguyễn Việt Nga –Phạm Minh Tú : Yêu văn và học văn –NXB Hà Nội
[4] PGS.TS.Lê Huy Bắc (chủ biên) –Lê Quang Đức – Nguyễn Thị Minh Tuyết :Hỏi đáp kiến thức Ngữ văn 6 NXB Giáo dục.
[5] Đoàn Thị Thu Hà – Phùng Thị Thanh Lâm : Ngân hàng bài tập tiếng việt lớp 6 NXB Giáo dục 
[6] Vũ Nho (chủ biên) –Nguyễn Thúy Hồng –Trần Thị Thành : Bài tập rèn kĩ năng tích hợp Ngư văn 6 NXB Giáo dục.

File đính kèm:

  • docPhát_huy_năng_lực_cảm_thụ_văn_học_cho_học_sinh_lớp_6_thông_qua_một_số_biện_pháp_nghệ_thuật_tu_từ.doc
Sáng Kiến Liên Quan