Sáng kiến kinh nghiệm Những biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm

Giáo viên chủ nhiệm lớp trước hết phải quản lí toàn diện lớp học và cần nắm vững: hoàn cảnh và những thay đổi, những tác động của gia đình đến học sinh của lớp chủ nhiệm; quản lí toàn diện đặc điểm học sinh của lớp. Nắm vững mục tiêu đào tạo cả về mặt nhân cách và kết quả học tập của học sinh, để kết hợp giáo dục.

Giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực hiện tốt nhiệm vụ của một thầy cô giáo nói chung, mẫu mục về đạo đức, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật và những quy định của nhà nước; nắm vững đường lối, quan điểm giáo dục và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn dạy học. Người giáo viên phải tham gia các hoạt động chính trị - xã hội với tư cách là lực lượng tri thức trong công cuộc đổi mới, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Giáo viên chủ nhiệm còn có trách nhiệm nắm vững tình hình học sinh của lớp về mọi mặt, báo cáo cho hiệu trưởng và BGH kịp thời các vấn đề của lớp chủ nhiệm để giải quyết. Kịp thời kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan quá trình rèn luyện, phấn đấu, tu dưỡng của học sinh.

Có kế hoạch tổ chức hoạt động của tập thể học sinh thực hiện nhiệm vụ chung của nhà trường cùng với các tập thể lớp khác làm chủ lớp chủ nhiệm trở thành thành viên tích cực của cộng đồng trường học. Thông qua tổ chức hoạt động tự quản của tập thể mà rèn luyện nhân cách, khả năng ứng xử, năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng tri thức vào thực tiễn cuộc sống.

Giáo viên chủ nhiệm cùng giáo viên bộ môn phối hợp với các tổ chức, đoàn thể khác tổ chức cho học sinh có điều kiện tham gia vào các hoạt động của nhà trường, xã hội,

 

doc20 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 2625 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Những biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 giải trình ý kiến của tổ viên (nếu có). Nếu ý kiến vượt quá nhiệm vụ của tổ trưởng thì lớp trưởng hoặc GVCN giải trình. 
Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại hạnh kiểm trong tuần cho các thành viên trong lớp.
Vào thứ bẩy của tuần cuối cùng trong tháng, GVCN họp cùng BCS lớp để xếp loại hạnh kiểm tháng cho học sinh trong lớp.
Với việc xếp loại hạnh kiểm theo thang điểm như vậy thì việc đánh giá hạnh kiểm của học sinh là tương đối chính xác. Tuy nhiên có những vi phạm của học sinh là ngoài ý muốn của các em. Vì vậy trong quá trình thực hiện GVCN cần có cách xử lý phù hợp, nếu là trường hợp ngoài ý muốn thì không nên trừ điểm của các em nhưng cần chú ý để không bị học sinh nói dối. Những học sinh vi phạm, giáo viên cũng nên cho các em “lập công chuộc tội”. Nếu như đẩy các em vào đường cùng, không có điều kiện sửa sai thì dễ làm cho các em chán nản, thất vọng, mất động cơ để phấn đấu.
Ví dụ 1: Trong thang điểm tôi có đưa ra trường hợp: 
- Trong tuần nếu bị hạnh kiểm loại TB hoặc khá nhưng đạt 3 điểm tốt và có ý thức sửa sai thì sẽ được nâng một bậc hạnh kiểm.
- Trong tuần đạt 3 điểm tốt, không vi phạm nội quy thì được tuyên dương trước lớp và trước trường, 
Ví dụ 2: Học sinh nghỉ học không phép, giáo viên tìm hiểu lí do, nếu nghỉ vì lý do chính đáng nhưng không kịp viết đơn thì chấp nhận cho các em nộp đơn vào ngày đi học sau đó.
 Một điều cần chú ý trong khi xử lí các hành vi phạm của học sinh nữa là phải tìm hiểu lý do dẫn đến những vi phạm của học sinh. Nếu cách xử lí không phù hợp với lý do, trừ điểm mà các em không “tâm phục khẩu phục” sẽ dễ dẫn đến thái độ bất mãn nơi các em.
Ví dụ: Lớp có 2 học sinh thường xuyên đi học muộn là Nguyễn Văn Bình và Nguyễn Thị Vân. Qua tìm hiểu tôi biết được rằng nhà của em ở xa trường
Ở hai trường hợp này nếu không biết lí do mà cứ trừ điểm liên tục thì cứ thể đây là một trong những nguyên nhân nếu các em nghỉ học. Trong trường hợp này tôi thường hỏi lí do và ít trừ điểm nên càng về sau các em càng cố gắng.
2.5, Phát huy vai trò của BCS lớp.
Trong những năm trước, khi làm công tác chủ nhiệm, tôi không chú ý đến vai trò của BCS lớp. Lớp trưởng, các lớp phó, các tổ trưởng chỉ là chức danh, không hoạt động đúng vai trò và chức năng của mình. Hay nói đúng hơn là chỉ mang tính hình thức. Chính vì vậy, GVCN phải làm nhiều việc của lớp, thêm vào đó mọi thành viên trong lớp không tiến bộ, đặc biệt là trong việc thực hiện nội quy. Giáo viên khó nắm tình hình lớp kịp thời.
Một lớp học muốn tiến bộ, tự quản tốt thì vai trò của BCS lớp rất quan trọng. Các em cùng học chung một lớp, chung độ tuổi,chung tâm lý,  nên dễ nắm tình hình lớp, dễ hiểu nhau,  đó là điều kiện để lớp hoạt động tốt, giáo viên có thể nắm được tình hình lớp mà không phải ngày nào cũng trực ở lớp.
Vậy làm sao phát huy được vai trò của BCS lớp?
Trước hết giáo viên phải tạo được thiện cảm và niềm tin, quan trọng hơn là dám tin và đám giao nhiệm vụ cho các em. Bên cạnh đó là sự định hướng và hướng dẫn của GVCN.
Ví dụ: Để chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11, Đoàn trường tổ chức hội thi văn nghệ, tôi đã để cho các em tự chọn tiết mục để tham gia. Trong đó lớp phó văn nghệ là người tổ chức và chịu trách nhiệm. Tôi chỉ đóng vài trò là người hướng dẫn, tham gia ý kiến ở nội dung, cố vũ động viên các em, cho các em thấy ý nghĩa của việc tự mình tổ chức sẽ có lợi cho các em như thế nào.
 Cùng chung một lớp, chung độ tuổi, chung địa bàn cư trú nên học sinh thường hiểu nhau, nắm được thông tin của bạn mình. Các em có thể tâm sự với nhau những điều mà chúng khó tâm sự với GVCN. Vì vậy GVCN nên tận dụng ưu điểm này ở BCS lớp để nắm tình hình của các thành viên trong lớp. Không những thế, GVCN còn có thể “nhờ” các em giải quyết những vấn đề mà bản thân mình khó giải quyết.
Ví dụ: Thông qua BCS lớp tôi có thông tin về học sinh như:
Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Như Đức là những lao động chính trong nhà (nuôi lợn, thả cá), đây cũng là hai học sinh tham gia đá gà ở nhà.
Học sinh Nguyễn Văn Bình ở nhà chỉ có cha, còn mẹ bỏ đi. Em rất thương người cha của mình (có thể kiểm chứng qua việc đầu năm ghi sơ yếu lí lịch em nói rằng: “Em không có mẹ”).
Tuy nhiên để làm được như vậy, GVCN phải có định hướng, hướng dẫn cho các em làm việc.
Ví dụ: Em Vương Thị Linh là học sinh có năng lực, bản tính hiền nhưng ở nhà cha mẹ bất hoà, Linh ở với người dì, em có tư tương chán nản, bất cần, thích thì đi học không thích thì nghỉ. Em sống khép kín, ít nói chuyện, tôi cũng khó gần.
Trong trường hợp này tôi không trực tiếp giúp em hoà đồng mà trao lại việc này cho lớp phó văn - thể và lớp phó học tập và định hướng cho các em: luôn coi bạn là quan trọng, là người có thể tâm sự chia sẻ những việc mà mình đang gặp khó; nếu biết bạn làm được việc gì đó (như giải được bài tập) khi có điều kiện thì trao đổi với bạn; rủ bạn tham gia các hoạt động của lớp, cho dù đó chỉ là việc đi mua khăn phủ bàn,  và trong phòng học tôi không quên dán hai khẩu hiệu:
“Đừng đợi đến lúc cô đơn mới nhớ ra bạn bè”
“Tha thứ là cách trả thù vinh quang nhất”
Sau 2 tháng, em Linh đã có nhiều chuyển biến về tinh thần: vui vẻ, nói nhiều, điểm cao hơn và đặc biệt từ giữa tháng 11 có mong muốn được ngồi gần lớp phó học tập để được giúp đỡ nhiều hơn. Dì của Linh nói rằng: “Không biết sao bây giờ Linh thay đổi như vậy”. 
Ví dụ 2: Lớp tôi có nhiều học sinh có học lực TB vàcó cả học sinh có học lực yếu nhưng lại không bao giờ hỏi thầy bộ môn, hỏi bạn dù không biết. Trong trường hợp này tôi cho lớp phó tập trung những học sinh khá giỏi các môn của lớp lại và định hướng cho các em cách giúp: có gắng gần gũi bạn và nhờ bạn làm một việc gì đó mà bạn thích; không ngại hỏi ý kiến bạn ở những bài tập mà bạn biết làm, từ từ chuyển qua trao đổi bài tập với nhau và khi bạn đã nhận sự giúp sức của mình thì luôn tạo cho bạn cảm giác là bạn tìm ra đáp số, 
Đến giữa học kì I thì đa số những học sinh yếu đã mạnh dạn hỏi bạn, lớp học sôi động, đa số các thầy cô rất thích khi vào dạy ở lớp.
Trong một lớp học thường học sinh học yếu, TB ít vì lí do từ năng lực mà phần nhiều do lười biếng, không học bài, làm bài ở nhà. Khi về nhà chủ yếu đi chơi, làm việc, cha mẹ không quan tâm – không quản lí con.
Đối với những học sinh này nếu giáo viên chỉ động viên, bắt ép học bài hay xử phạt nhiều thì vấn đề không giải quyết được là bao.
Trong trường hợp này, kết hợp với việc BCS lớp và những học sinh khá giỏi hỗ trợ cho các em thì GVCN giao cho BCS lớp việc giám sát học tập: kiểm tra bài cũ, bài tập làm ở nhà,  trong 15 phút đầu giờ. Việc này được làm hàng ngày, mọi thành viên trong lớp đều được tổ trưởng, lớp phó học tập kiểm tra.
Nếu học sinh nào chưa thuộc bài, không làm bài thì cuối buổi sẽ phải ở lại học thuộc, làm bài dưới sự hướng dẫn, quản lý của BCS lớp xong rồi mới về. Nhưng để làm việc này thì trong kì họp phụ huynh đầu năm phải có được sự đồng ý của cha mẹ học sinh.
Cho BCS lớp giám sát việc học của các thành viên trong lớp, các em phải ở lại cuối buổi để hướng dẫn các bạn của mình còn có tác dụng làm cho BCS lớp ý thức trách nhiệm hơn đối với công việc mình làm.
Ví dụ: Ở lớp, tôi đã áp dụng biện pháp này. Kết quả có nhiều khả quan, như em Bình, em Hùng, em Tùng, em Dung, ở lớp chú ý học bài, về nhà cũng chịu làm bài và đặc biệt trong lớp khi giáo viên kiểm tra bài cũ thì ít khi học sinh không thuộc bài. 
Tóm lại, nếu giáo viên chủ nhiệm biết phát huy vai trò của BCS lớp thì lớp sẽ hoạt động có nề nếp, GVCN dễ dàng nắm tình hình lớp hàng ngày.
Khi để BCS lớp quản lí lớp, GVCN cần nhắc nhở các em cách ứng xử với các thành viên trong lớp để tránh tình trạng các em có những lời nói hoặc hành động xúc phạm bạn của mình. Nếu việc này xảy ra thì việc mất đoàn kết trong lớp là khó tránh khỏi.
Khi quy trình này được tiến hành thì lớp học sẽ trở thành lớp tự quản (vì đa số các thành viên đã ý thức được vài trò của mình trong lớp) trong đó vai trò của BCS lớp rất lớn. Lớp tự quản không chỉ thể hiện ở những việc làm trên mà còn thể hiện ở tiết sinh hoạt chủ nhiệm. Có thể kiểm chứng qua các hoạt động của tiết sinh hoạt được trình bày sau đây:
 Hoạt động 1: 
 - Các tổ trưởng báo cáo lên bảng tình hình học tập của các thành viên trong tổ. Giải trình ý kiến của tổ viên (nếu có), nếu tổ trưởng không giải trình được thì lớp trưởng hoặc GVCN giải trình.
- Lớp trưởng đánh giá nhận xét và đề xuất ý kiến (nếu có). Trên cơ sở báo cáo của tổ trưởng, lớp trưởng quy ra điểm rồi xếp loại hạnh kiểm tuần cho các thành viên trong lớp.
- Nếu là cuối tháng thì lớp trưởng đọc luôn hạnh kiểm tháng cho cả lớp (đã được GVCN và BCS lớp họp xét vào tiết cuối của ngày thứ sáu cuối tháng).
Hoạt động 2: 
- Giáo viên chủ nhiệm đánh giá nhận xét tình hình học tập trong tuần.
- Đưa ra hình thức tuyên dương, phê bình, hình thức xử phạt đối với các hành vi tương ứng.
Hoạt động 3: Thủ quỹ báo cáo tình hình thu chi quỹ lớp trong tháng (hoạt động này chỉ diễn ra ở tuần cuối tháng).
Hoạt động 4: 
- Lớp trưởng tổ chức cho lớp nêu ý kiến về việc dạy và học ở các môn học.
- GVCN giải trình. 
Hoạt động 5: GVCN thông báo kế hoạch tuần tiếp theo.
Qua các bước hoạt động trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm có thể thấy học sinh là trung tâm của tiết sinh hoạt còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người tông kết vấn đề.
Trên đây chỉ là một số trong những biện pháp cụ thể để phát huy vai trò của BCS lớp trong toàn bộ quá trình hoạt động của lớp. 
2.6, Phương pháp giáo dục cá biệt và phương pháp tác động tập thể.
Người GVCN muốn làm tốt công tác chủ nhiệm phải biết vận dụng nhiều phương pháp giáo dục khác nhau trong đó có phương pháp giáo dục cá biệt và giáo dục tập thể.
Phương pháp giáo dục cá biệt ở đây không nên hiểu là giáo dục học sinh cá biệt mà cần hiểu phương pháp giáo dục cá biệt là sự tác động tới từng cá nhân một cách chuyên biệt để đảm bảo tính phù hợp với đối tượng.
Ví dụ: Cùng một biểu hiện có lỗi như nhau, nhưng có em phải phê bình nghiêm khắc, có em lại nhắc nhẹ, có khi nhắc chung chung, có lúc lại nhắc nhở riêng (trực tiếp), có khi phải tách học sinh ra khỏi tập thể để giáo dục riêng, 
Thực chất của quá trình giáo dục cá biệt là vận dụng “Tâm lý học lứa tuổi” để giáo dục học sinh, xử lý các tình huống mà người giáo viên gặp phải trong dạy học nói chung và trong công tác chủ nhiệm nói riêng. 
Vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt và giáo dục tập thể người giáo viên phải đo được mức độ hành vi, nắm được tâm lí chung của tập thể cũng như tâm lý chung của cá nhân. Nếu không đáng khen mà khen quá lời, chỉ đáng nhắc nhở nhưng vì lẽ nào đó giáo viên cảnh cáo, phê bình sẽ dễ làm cho học sinh chán nản, mất lòng tin, bi quan,  
Để vận dụng phương pháp này hiệu quả, người giáo viên chủ nhiệm cần nắm được tâm lý của từng cá nhân trong lớp cũng như tâm lí – tính cách chung của học sinh lớp mình chủ nhiệm. Trên cơ sở đó việc chủ nhiệm sẽ hiệu quả hơn. 
Muốn hiểu tâm lý học sinh, giáo viên cần quan sát vào hoạt động thực tế của học sinh ở lớp học, cộng đồng, gia đình, Nghiên cứu đặc điểm học sinh là việc làm hết sức quan trọng. Vì chỉ trên cơ sở hiểu biết từng em mới có khả năng phân loại nhóm theo các đặc điểm về học lực, tính cũng như hoàn cảnh.
Ví dụ: Giáo viên có thể hiểu rõ tính cách của học sinh mình nếu chịu quan sát kĩ các em qua các buổi lao động, sinh hoạt chủ nhiệm, các buổi hội thao, 
Điều đặc biệt quan trọng đối với giáo viên chủ nhiệm là bằng các biện pháp nghiên cứu, phân tích được nguyên nhân của các hiện trạng, đặc điểm của từng học sinh. Chỉ trên cơ sở biết được nguyên nhân dẫn tới các đặc điểm tâm lý của học sinh thì giáo viên chủ nhiệm mới có giải pháp tác động, giáo dục phù hợp, mang lại hiệu quả cao.
Ví dụ 1: Đều là hiện tượng học yếu nhưng có em do trí tuệ chậm phát triển, có em do hoàn cảnh gia đình khó khăn, có em do phân tán tư tưởng trong quá trình tiếp thu bài, 
Ví dụ 2: Trong lớp tôi, đầu năm học có hai học sinh có biểu hiện chán học, thường xuyên nghỉ học không phép, trốn tiết là emLinh và em Tùng. Qua tìm hiểu cùng với các thông tin từ BCS lớp có thể chỉ ra các nguyên nhân:
Đối với em Linh chủ yếu do sự bất hòa trong gia đình, em Linh sống với dì.
Em Tùng chán học do tham gia đá gà ở nơi cư trú, ở nhà gia đình không quản lý.
Khi giáo viên đã nắm được nguyên nhân của hành vi thì trên cơ sở tâm lý – tính cách của học sinh giáo viên đưa ra biện pháp xử lý kịp thời với học sinh. Việc xử lý kịp thời các hành vi sai trái rất quan trọng. Nếu không xử lý kịp thời thì có thể dẫn đến những hậu qủa khó lường bởi tính hiếu thắng, muốn khẳng định mình của học sinh. Trong quá trình lý thì cần chú ý đến tính cách của học sinh để có biện pháp phù hợp, nếu không sẽ phản tác dụng.
Ví dụ: Nếu một học sinh có lòng tự trọng cao thì không nên trách móc, bới tội trước lớp. Trong trường hợp này giáo viên nên gặp trực tiếp. 
Cách xử lý trên cũng phù hợp với học sinh có lỗi mà biết nhận lỗi và sửa, học sinh dễ “mủi lòng”. Trong trường hợp này giáo viên nên sử dụng nhiều câu biểu cảm, thể hiện thái độ, tâm trạng của chính mình.
Trước học sinh lỳ lợm, bất cần đời thì biện pháp tốt nhất là tìm hiểu điểm yếu về tình cảm của đó, từ đó tác động trực tiếp. Những học sinh kiểu này giáo viên không nên la mắng, khiêu khích vì các em rất dễ làm liều.
Với học sinh có tính ganh đua thì nên khiêu khích, so sánh em đó với một học sinh nào đó hơn em 
Lê- nin từng có khẩu hiệu trong Cách mạng tháng 10 là: “hòa bình bánh mì”. Tuy học hành sẽ mang lại cái lợi lâu dài nhưng các em cũng không quên cái lợi trước mắt cũng giống như hòa bình mà không có gì ăn mà chiến tranh có cái ăn còn hơn. Chính vì vậy cho các em thấy cái lợi trước mắt cũng là một biện pháp giúp các em học tốt. Bên cạnh đó cũng không quên cho các em thấy cái lợi lâu dài của việc học.
Ví dụ: Cái lợi trước mắt có thể là: được phiếu học tốt, tuyên dương trước cờ, có giấy khen – phần thưởng ở cuối học kì,  Cái lợi lâu dài thì tùy thuộc vào từng môn.
Lợi ích lâu dài có thể là: nếu có nghề nghiệp thì không phải “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” như làm ruộng nhưng tiền lương vẫn cao, làm việc trong phòng máy lạnh, được đi đây đi đó, 
Học sinh cũng như bất cứ người nào, khi có lỗi thường che dấu. Bởi vậy trước khi xử lý, bằng mọi cách phải cho các em thấy lỗi và nhận lỗi của mình. Làm vậy trước hết học sinh sẽ nể vì các em không thể dấu nổi hành vi sai trái của mình và học sinh sẽ có cảm giác thầy luôn biết những việc mình làm. Đó là cơ sở để các biện pháp xử lý của mình có hiệu quả.
Khi xử lý tình huống cần bảo đảm giữ được thể diện cho các em, làm cho học sinh thấy mình được tôn trọng nhưng cũng cần cho học sinh thấy sự nghiêm túc và cứng rắn của thầy.
Ví dụ: Ở lớp 12C có hai học sinh thường xuyên tham gia cá cược ở nơi sống (em Bình và em T ùng). Trước tình huống này tôi không xử lý trước lớp mà gọi các em lên văn phòng. Trước hết tôi đặt câu hỏi cho hai em tự nhận lỗi nhưng các em lại chối lỗi. trước tình hình đó tôi đặt câu hỏi:
- Các em có biết chú Nghĩa ở Hiệp Cát không?
- Em có biết.
- Chú ấy là công an xã Hiệp Cát . Hôm trước cô qua xã có nghe chú Nghĩa nói là có một số học sinh Hiệp Cát học ở tham gia cá cược đá gà. Số học sinh này đã được lập danh sách để gửi về trường. Cô mượn danh sách thì trong đó có hai em. 
Trước câu nói đó của tôi thì hai em cúi mặt, im lặng. Tôi tiếp:
- Nếu các em nói không tham gia thì có lẽ bên an ninh xã họ nhầm tên. Nhưng nếu có, họ gửi danh sách qua trường thì chắc chắn các em sẽ bị kỉ luật. Bây giờ nên nói thật để cô còn biết đường.
Nghe xong cả hai đều nói: 
Có, chúng em có tham gia. Bây giờ làm sao hả cô?
Như vậy học sinh đã nhận lỗi, lo lắng về hành vi của mình và sơ bị kỉ luật. Có nghĩa là các em vẫn coi trọng việc học. Từ đó tôi giải thích cho các em cái hại của việc tham gia đá gà cũng như các trò cờ bạc. Tôi yêu cầu các em viết bản tự kiểm. Cả hai đều hứa sẽ không lặp lại hành vi này. Cho đến bây giờ, qua quá trình theo dõi của em Bình thì không thấy hai học sinh này tham gia nữa.
Điều quan trong trong việc vận dụng phương pháp giáo dục cá biệt là phải tìm hiểu nguyên nhân của hành vi, tính cách tâm lí, thái độ từ đó có biện pháp xử lý phù hợp. Trong xử lý cần tôn trọng nhân cách học sinh và phải cho các em thấy được điều này.
Muốn phát huy hiệu qủa của phương pháp giáo dục trong tập thể, giáo viên chủ nhiệm trước hết phải là người có uy tín, có trách nhiệm, nắm vững đối tượng, xây dựng được tập thể học sinh thành một tập thể vững mạnh:
 + Đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ chung của từng thành viên của lớp. 
 + Tổ chức những hoạt động chung để thực hiện mục tiêu.
 + Lớp có đội ngũ tự quản có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực, bản lĩnh.
 + Có kỉ luật chặt chẽ, có qui định, nội qui phải rõ ràng, được mọi người tôn trọng và tự giác chấp hành.
 + Có dư luận tập thể lành mạnh, dư luận của tập thể là phản ánh sức mạnh, là bản lĩnh của mỗi thành viên.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Trên đây là một số biện pháp giúp làm tốt công tác chủ nhiệm ở lớp mà tôi đã thực hiện. Sau đây tôi xin nêu một vài kết quả đạt được để minh họa. 
1. Kết quả
1.1, Duy trì sĩ số:
Đầu năm lớp có 54 học sinh. Cuối học kì lớp có 54 học sinh, không giảm sĩ số.
1.2, Chất lượng hai mặt giáo dục ở HK I 
 Tổng hợp chất lượng hai mặt ở HK I
Hạnh kiểm
Học lực
Tốt
24
Giỏi
/
Khá
30
Khá
19
TB
/
TB
35
Yếu
/
Yếu
/
1.3, Tham gia phong trào:
 - Lớp tham gia tất cả các phong trào do nhà trường cũng như các tổ chức phát động và đạt được một số kết quả như sau:
1. Giải nhì đợt trang trí phòng học đầu năm.
2. Giải nhì hội thi nội san chào mừng 20- 11
3. Giải nhất cầu lông nữ Hội thao chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11 
4. Giải nhì Hội diễn văn nghệ chào mừng Ngày nhà giáo Việt Nam 20 – 11
2. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm như sau:
Muốn cho học sinh làm một việc gì đó thì người giáo viên phải tạo cho các em ham muốn làm việc đó, cho các em thấy được lợi ích của nó.
Luôn tôn trọng học sinh, nhất là ở nơi đông người.
Luôn đặt lợi ích của học sinh làm đầu, xem các em là trung tâm của mọi vấn đề trong lớp học.
Từng bước rèn luyện cho các em năng lực tự quản, tự giải quyết các vấn đề. Từ đó học sinh sẽ cảm nhận được vai trò làm chủ của mình.
Người GVCN tuy cho lớp tự quản nhưng phải luôn luôn đồng hành cùng các em, nhanh chóng nắm bắt tình hình lớp để giải quyết những vấn đề vượt khỏi phạm vi của các em. Việc đồng hành cùng các em cũng làm cho học sinh cảm thấy an tâm vì thầy cô luôn ở bên – các em sẽ tự tin hơn trong mọi hoạt động
Chúng ta không nên áp dụng dập khuôn máy móc bấc kỳ một phương pháp giáo dục nào bởi lẽ sản phẩm đây chính là “con người”.
Để đạt được mục đích giáo dục, ta cần phải biết chọn điểm xuất phát thích hợp với đặc điểm riêng của từng trường, từng lớp, từng HS,
Sau một thời gian thực hiện và áp dụng SKKN này tôi nhận thấy một vấn đề cần phải nghiên cứu, đó là: “Vai trò giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc nâng cao chất lượng học tập của học sinh cuối cấp THPT”.
Sự thành công trong công tác chủ nhiệm lớp, một nhân tố quan trọng mà chúng ta nên thận trọng cân nhắc khi quyết định lựa chọn, đó chính là “lớp truởng”.
Muốn làm tốt được những điều trên đòi hỏi người GVCN lớp phải là người có uy tín, có năng lực thực sự để chỉ đạo, dám nghĩ, dám làm đi trước, đề xuất được các vấn đề giá trị, tập hợp được sức mạnh tổng hợp, vai trò con chim đầu đàn là yếu tố có phần lớn lao, tạo nên sự thành công hay thất bại ở mỗi HS, mỗi lớp học, mỗi trường học
3. Kiến nghị (đối với nhà trường):
Thành lập tổ chủ nhiệm trong trường, thông qua đó các GVCN có thể trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau để giúp nhau làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm.
Tạo điều kiện để mọi giáo viên đều được làm công tác chủ nhiệm. Chỉ khi không hoàn thành nhiệm vụ mới bãi nhiệm và giao lớp đó cho giáo viên khác.
4. Lời kết:
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi, đúc rút và thực hiện trong quá trình làm công tác chủ nhiệm. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của BGH nhà trường, của các đồng chí tổ trưởng, các đồng chí đồng nghiệp giàu kinh nghiệm để giúp hoàn thành tốt công việc được giao và thành công trong sự nghiệp trồng người của mình. 

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem.doc
Sáng Kiến Liên Quan