Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy nội dung về câu cho học sinh lớp 4 thông qua việc sử dụng các thủ pháp phân biệt thành phần câu

1.1.1. Giáo viên sử dụng ngữ liệu trong sách giáo khoa để phân tích, rút ra ghi nhớ về bộ phận chủ ngữ, vị ngữ trong câu, bộ phận trạng ngữ của câu.

- Chủ ngữ là một thành phần chính trong câu, chủ ngữ trả lời câu hỏi Ai ? Cái gì ? Con gì ?, chủ ngữ có cấu tạo là danh từ hay cụm danh từ.

- Vị ngữ là một thành phần chính trong câu, vị ngữ trả lời câu hỏi Làm gì? Thế nào? Là ai? Là cái gì? Là con gì?, vị ngữ có cấu tạo là một động từ, tính từ, danh từ hay cụm động từ, cụm tính từ, cụm danh từ.

- Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, trạng ngữ trả lời câu hỏi Khi nào? Ở đâu? Vì sao? Do đâu? Bằng cái gì?.

1.1.2. Học sinh áp dụng những nội dung ghi nhớ để làm bài tập trong sách giáo khoa hoặc vở bài tập.

 1.2. Nhược điểm và tồn tại của giải pháp cũ:

 - Thực tế trong các văn bản mà các em được học xuất hiện rất nhiều những câu có cấu tạo đặc biệt, các em không thể xác định được từng bộ phận

chính và bộ phận trạng ngữ của những câu đó.

 Ví dụ:

 Anh về muộn làm cả nhà lo lắng.

 Trong thùng đầy nước.

 Thuốc, anh ấy không hút.

 Dừng lại ở ngoài cổng, chị nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.

 - Khi đặt câu, viết đoạn văn, đa số các em đã không thực hiện được theo yêu cầu, mục đích cần đạt.

 Ví dụ: Bài tập yêu cầu điền thêm bộ phận chính vào sau trạng ngữ để hoàn chỉnh câu sau : Bên kia cánh rừng, .

Kết quả là 100% học sinh điền sai, mà chủ yếu điền được dạng câu như sau :

 Bên kia cánh rừng có một ngôi nhà.

 Nếu đọc câu văn lên thì rất hoàn chỉnh, nhưng nó đã không đúng với yêu cầu của đề bài : Trạng ngữ đã biến đổi thành chủ ngữ.

 

doc44 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 2683 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy nội dung về câu cho học sinh lớp 4 thông qua việc sử dụng các thủ pháp phân biệt thành phần câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
anh từ.
- Trạng ngữ là thành phần phụ của câu, trạng ngữ trả lời câu hỏi Khi nào? Ở đâu? Vì sao? Do đâu? Bằng cái gì?....
Ví dụ: Giáo viên và học sinh dễ dàng xác định được các thành phần của câu sau:
 Mùa xuân này,/ cả đất nước / đang vui niềm vui xây dựng.
 TN	 CN	 VN
 Ưu điểm của giải pháp cũ: 	
 - Bước đầu học sinh nhận biết được hai bộ phận chính của câu và bộ phận phụ trạng ngữ có ý nghĩa, cấu tạo và vị trí như thế nào trong câu.
 - Học sinh được rèn kĩ năng xác định bộ phận chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ của những câu đơn giản và đặt câu có bộ phận trạng ngữ. 
 Nhược điểm và tồn tại của giải pháp cũ:
 - Thực tế trong các văn bản mà các em được học xuất hiện rất nhiều những câu có cấu tạo đặc biệt, các em không thể xác định được từng bộ phận
chính và bộ phận trạng ngữ của những câu đó.
 Ví dụ:
 Anh về muộn làm cả nhà lo lắng.
 Trong thùng đầy nước.
 Thuốc, anh ấy không hút.
 Dừng lại ở ngoài cổng, chị nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
 - Khi đặt câu, viết đoạn văn, đa số các em đã không thực hiện được theo yêu cầu, mục đích cần đạt.
 Ví dụ: Bài tập yêu cầu điền thêm bộ phận chính vào sau trạng ngữ để hoàn chỉnh câu sau : Bên kia cánh rừng, .........
Kết quả là 100% học sinh điền sai, mà chủ yếu điền được dạng câu như sau :
 Bên kia cánh rừng có một ngôi nhà.
 Nếu đọc câu văn lên thì rất hoàn chỉnh, nhưng nó đã không đúng với yêu cầu của đề bài : Trạng ngữ đã biến đổi thành chủ ngữ.
 Để khắc phục những tồn tại trên, chúng tôi đã đưa ra những giải pháp mới được cải tiến như sau :
Giải pháp mới cải tiến:
Giải pháp thứ nhất : Giáo viên cần nắm vững những đặc trưng cơ bản của các thành phần ngữ pháp của câu:
 	Trước hết cần hiểu: Thành phần câu là thành tố trực tiếp tạo câu, có thể là từ, ngữ, cụm từ ngữ hay một cụm chủ- vị.
Ba tiêu chuẩn cũng là ba đặc trưng cơ bản của thành phần câu là:
* Vai trò ngữ pháp và ngữ nghĩa trong câu:
- Chủ ngữ ( CN) là thành phần chính thứ nhất trong hai thành phần chính của câu, rất ít khi CN bị lược bỏ khi tách khỏi ngữ cảnh. Chủ ngữ biểu thị đối tượng được nói tới trong câu.
- Vị ngữ ( VN) là thành phần chính thứ hai của câu, VN không thể bị lược bỏ khi tách khỏi ngữ cảnh. Vị ngữ biểu thị hành động, trạng thái, đặc điểm, tính chất của đối tượng được nói tới trong câu.
- Trạng ngữ ( TN) là một thành phần phụ của câu, không bắt buộc phải có mặt trong câu, nó bổ sung cho nòng cốt câu về thời gian, địa điểm, nguyên nhân, mục đích, phương tiện, cách thức, điều kiện,Nếu lược bỏ trạng ngữ, câu vẫn là câu trọn vẹn và hoàn chỉnh.
Ví dụ:
 Mùa xuân này,/ cả đất nước / đang vui niềm vui xây dựng.
 TN- chỉ thời gian	 CN	 VN
Ở ví dụ trên, chủ ngữ ( cả đất nước) biểu thị đối tượng được nói tới trong câu, vị ngữ (đang vui niềm vui xây dựng) biểu thị đặc điểm, tính chất của đối tượng được nói tới trong câu, Chủ ngữ, vị ngữ không thể bị lược bỏ. Thành phần trạng ngữ (Mùa xuân này) biểu thị về thời gian, nếu bị lược bỏ thì câu vẫn diễn đạt ý trọn vẹn.
* Quan hệ ngữ pháp, ngữ nghĩa với các thành phần câu khác.
- Chủ ngữ có quan hệ chặt chẽ, trực tiếp và phù hợp với vị ngữ, kết hợp với vị ngữ để tạo thành một cấu trúc câu biểu thị một nội dung nhất định.
- Vị ngữ có quan hệ chặt chẽ, trực tiếp và phù hợp với chủ ngữ, kết hợp với chủ ngữ để tạo thành một cấu trúc câu biểu thị một nội dung nhất định.
 So sánh về quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa trong cặp câu sau sẽ thấy rõ:
Cái bàn tròn này hơi vênh.
Cái bàn tròn này vuông lắm.
 Câu (1) chấp nhận được, còn câu (2) không chấp nhận được vì vuông không thể là đặc điểm của cái bàn tròn, chủ ngữ không hợp với vị ngữ.
 - Trạng ngữ có quan hệ với cả nòng cốt câu, bổ sung ý nghĩa cho cả câu. Trạng ngữ không kết hợp trực tiếp với chủ ngữ hay vị ngữ về ngữ pháp, nó thường tách khỏi nòng cốt câu bởi dấu phẩy, có khi nối với câu bởi từ chỉ quan hệ.
Ví dụ:
 Vì tôi , cậu ấy bị phê bình.
 TN
 Vì tôi nên cậu ấy bị phê bình.
 TN
* Vị trí thường xuất hiện trong câu:
- Chủ ngữ thường đặt ở đầu câu, ngay trước vị ngữ, không bị tách khỏi vị ngữ bởi dấu phẩy.
- Vị ngữ thường đặt ở sau chủ ngữ, không bị tách khỏi chủ ngữ bởi dấu phẩy.
Ví dụ:
Dân tộc Việt Nam / là một dân tộc anh hùng.
	CN	VN
- Có câu đảo vị ngữ lên trước chủ ngữ tạo nên một trật tự không bình thường, nhằm đạt hiệu quả tu từ, biểu cảm.
Ví dụ:
Vinh quang thay / dân tộc Việt Nam!
	VN	CN
	- Cũng có trường hợp xen vào giữa chủ ngữ, vị ngữ là thành phần chú giải hoặc trạng ngữ.
Ví dụ:
 (1) Pa-xcan,/ nhà toán học người Pháp,/ đã sáng chế ra chiếc máy tính đầu 
 CN phần chú giải	VN
tiên trên thế giới.
(2)Vịnh Hạ Long,/ ngày 17 -11 -1994,/ được UNESCO công nhận là di sản 
 CN	TN	VN
thiên nhiên thế giới. 
 - Trạng ngữ thường đứng ở đầu câu, trước nòng cốt câu, nhưng cũng có thể chuyển xuống sau nòng cốt câu hoặc xen giữa chủ ngữ và vị ngữ ( Ví dụ 2 ở trên). Tuy nhiên, không phải trạng ngữ ở đầu câu nào cũng có khả năng chuyển vị trí.
Ví dụ:
 (1) Trên dòng sông, chiếc xuồng lặng lẽ trôi.
 TN
 (2) Chiếc xuồng lặng lẽ trôi trên dòng sông. 
	TN
 (3) Giữa sân đình, anh ta hăm hở bước tới. 
	TN
 (4) Anh ta hăm hở bước tới giữa sân đình.
 Không phải TN
 Câu (4) khi trạng ngữ chuyển vị trí xuống cuối câu thì nghĩa của câu đã hoàn toàn thay đổi, nên nó không còn là trạng ngữ nữa.
Giải pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh phân biệt các kiểu cấu tạo của thành phần chủ ngữ
Chủ ngữ thường là danh từ (DT) hay cụm DT:
 Loại câu có chủ ngữ được cấu tạo như trên rất phổ biến nên đa số học sinh xác định đúng bộ phận chủ ngữ của những câu đó.
Ví dụ:
 Cá / bơi lội tung tăng..
 1 CN- 1 DT
 Hoa lan, hoa huệ, hoa hồng / nói chuyện bằng hương, bằng hoa.
 3CN- 3 cụm DT
Bên cạnh đó cũng gặp không ít trường hợp đặc biệt khác của chủ ngữ mà giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân biệt:
Một số trường hợp đặc biệt khác của CN:
Chủ ngữ có thể là từ thay thế cho danh từ hay cụm danh từ ( Đại từ):
Ví dụ:
 Họ / chiến đấu rất dũng cảm.
 CN
Vì học sinh lớp 4 chưa được học về Đại từ, nhưng khi gặp những câu có dạng như trên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định bộ phận chủ ngữ bằng cách đặt câu hỏi tương tự như dạng câu thường gặp: Ai chiến đấu rất dũng cảm ? ( Họ). 
Chủ ngữ có thể là một thành ngữ:
Ví dụ:
 Ở đời, mất cái nọ được cái kia / là lẽ thường tình.
 CN- thành ngữ
Ở dạng câu trên, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi: Điều gì là lẽ thường tình ? ( Mất cái nọ được cái kia).
 - Chủ ngữ có thể là động từ, tính từ hay cụm động từ, cụm tính từ
Ví dụ:
 Sản xuất / phải gắn với nhu cầu tiêu thụ.
 CN- động từ
 Đẹp nhất/ là hoa hồng.
 CN- cụm tính từ
 - Chủ ngữ có thể là một cụm chủ-vị
Ví dụ:
 Anh về muộn / làm cả nhà lo lắng.
 CN- cụm C-V
- Chủ ngữ có thể là từ, ngữ hoặc cụm C-V + từ chỉ trỏ ( này, nọ, kia, đó)
Ví dụ:
 (1) Thất bại đó/ do sự chủ quan của chúng ta.
 CN
 (2) Cái bút đỏ tươi đang để trên bàn này / là của chị Mai.
 CN
Ở ví dụ trên, câu (1) có CN là 1 từ + từ chỉ trỏ
 câu (2) có CN là 1 cụm C- V + từ chỉ trỏ
Chủ ngữ có thể chỉ nơi chốn, chỉ thời gian
Ví dụ:
 Trong thùng / đầy nước.
 CN- chỉ nơi chốn
 Trong thư viện / có một bộ từ điển mới.
 CN- chỉ nơi chốn
 Từ đầu nhà đến cuối nhà/ khoảng 30 mét.
 CN- chỉ nơi chốn
 Bên phải / là dãy núi Thiên Nhẫn.
 CN- chỉ nơi chốn
 Gần sáng / là lúc người ta ngủ say.
 CN- chỉ thời gian
Ở những câu trên, nếu học sinh không nắm chắc kiến thức thì dễ dàng cho rằng những từ ngữ gạch chân đều là TN vì nó đứng ở đầu câu và trả lời câu hỏi Ở đâu? hay Khi nào? Vì vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích kĩ càng để thấy: Những từ ngữ này khác với TN, không thể bị lược bỏ, vì nếu lược bỏ chúng, câu sẽ không trọn vẹn. Vì vậy, chúng là CN chỉ nơi chốn hay CN chỉ thời gian trong câu.
- Chủ ngữ có thể là từ chỉ thứ tự:
Ví dụ:
 Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
 CN CN CN CN
Phân tích cho học sinh thấy được: Câu trên tương đương với câu: Nhất là nước, nhì là phân, tam là cần, tứ là giống. và CN trong câu là những từ chỉ thứ tự.
 Tóm lại: Chủ ngữ trong câu thường do danh từ hay cụm danh từ tạo thành, cũng có khi chủ ngữ do động từ, cụm động từ, tính từ, cụm tính từ, từ chỉ thứ tự, thành ngữ, hay cụm C- V tạo thành. Chủ ngữ thường trả lời câu hỏi Ai? Cái gì? Con gì?, cũng có khi chủ ngữ trả lời câu hỏi Ở đâu? Khi nào? Thứ mấy? Sự việc gì?
Giải pháp thứ ba: Hướng dẫn học sinh phân biệt các kiểu cấu tạo của thành phần vị ngữ
Vị ngữ là động từ ( ĐT) hoặc cụm động từ:
Ví dụ:
 Đàn cá heo / bơi trước mũi tàu như dẫn đường.
 1VN- 1 Cụm ĐT
 Các loài hoa / nghe tiếng hót trong suốt của Hoạ mi, chợt bừng tỉnh, xoè 
4VN- 4 Cụm ĐT
 những cánh hoa đẹp, bày đủ các màu sắc rực rỡ.
Vị ngữ là tính từ ( TT) hoặc cụm tính từ:
Ví dụ:
 Bầu trời / trong vắt như thuỷ tinh.
 1VN-1 Cụm TT
 Những con cá song / rất khoẻ, vớt lên hàng giờ vẫn giãy đành đạch, vẩy 	 2VN- 2 cụm TT
 xám hoa đen lốm đốm.
Vị ngữ là kết hợp gồm: Quan hệ từ là + từ hoặc ngữ:
Ví dụ:
 Khen hoặc chê / là chuyện bình thường.
 VN
 Tôi / là giáo viên.
 VN
 Hà Nội / là thủ đô của nước ta.
	 VN
Một số trường hợp đặc biệt của vị ngữ:
Vị ngữ có thể là một cụm danh từ:
Ví dụ:
 Ông thủ trưởng cơ quan tôi / người Quảng Bình.
 VN- Cụm DT
- Vị ngữ có thể là một thành ngữ:
Ví dụ:
 Nó / vuốt mặt không nể mũi.
 VN- Thành ngữ
Vị ngữ có thể là một cụm C- V:
Ví dụ:
 Anh Nam/ tính tình rất cương trực.
 VN - Cụm C- V
 Vải này / khổ hơi hẹp.
 VN - Cụm C- V
Vị ngữ có thể đứng trước CN:
Ví dụ:
 Trước mặt chúng tôi, sừng sững / một dãy núi đá.
	 VN	CN
Vị ngữ có thể ở vị trí rất giống với trạng ngữ:
Ví dụ:
(1)Dừng lại ở ngoài cổng,/ chị / nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
	VN CN	VN
(2) Ở ngoài cổng,/ chị / nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
	TN CN	 VN
 Câu (1): Chị có hai hoạt động Dừng lại ở ngoài cổng và Nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại nên hai hoạt động này trả lời câu hỏi Làm gì?. Đó là hai bộ phận vị ngữ trong câu.
 Câu (2): Chị chỉ có một hoạt động Nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại nên câu này chỉ có một vị ngữ. Còn bộ phận Ở ngoài cổng trả lời câu hỏi Ở đâu? nên nó là bộ phận trạng ngữ.
Một số quan hệ từ nằm xen giữa CN và VN, được xác định là mở đầu vị ngữ.
Ví dụ:
 Cái óc nặng nề ấy / thì phải lâu mới nhớ ra được.
	VN
 Tóm lại: Vị ngữ trong câu thường do động từ, cụm động từ, tính từ, cụm tính từ tạo thành, cũng có khi vị ngữ do cụm danh từ, thành ngữ, hay cụm C- V tạo thành. Vị ngữ có khi đứng trước chủ ngữ hay ở vị trí rất giống với trạng ngữ.
Giải pháp thứ tư: Hướng dẫn học sinh phân biệt các kiểu cấu tạo của thành phần trạng ngữ
Trạng ngữ là một từ:
Ví dụ:
 Bỗng dưng trời đất tối sầm lại.
 TN- 1 từ
Trạng ngữ là một cụm từ:
Ví dụ:
 Sống trên cái đất mà ngày xưa cá sấu cản trước mũi thuyền, trên cạn hổ
	TN- 1 cụm từ
 rình xem hát này, con người phải thông minh và giàu nghị lực.
Trường hợp đặc biệt của trạng ngữ:
Trạng ngữ có thể là một cụm C- V:
Ví dụ:
 Tay xách chiếc cặp da lớn, thầy giáo bước vào lớp.
 TN- 1 cụm C- V
 Đầu gục vào vai mẹ, đứa trẻ ngủ ngon lành.
 TN- 1 cụm C- V
- Trạng ngữ có thể ở giữa hay cuối câu:
Ví dụ:
(2)Vịnh Hạ Long,/ ngày 17 -11 -1994,/ được UNESCO công nhận là di sản 
 CN	TN	VN
thiên nhiên thế giới. 
 (2) Chúng ta / phấn đấu, / vì tương lai.
 CN VN TN
 Giáo viên nhấn mạnh với học sinh: Khi trạng ngữ chuyển vị trí xuống cuối câu hay giữa câu thì phải đảm bảo nghĩa của câu không thay đổi, khi viết phải đặt dấu phảy ngăn cách với CN hay VN. Hãy so sánh các cặp câu sau đây để thấy rõ điều đó: 
 Vì tương lai,/ chúng ta / phấn đấu .
 TN CN VN
 Chúng ta / phấn đấu, / vì tương lai.
 CN VN TN
 Giữa sân đình, anh ta / hăm hở bước tới. 
	TN CN VN
 Anh ta / hăm hở bước tới giữa sân đình. 
 CN VN 
Một số chú ý khi phân biệt trạng ngữ với các thành phần khác của câu: 
+ Phân biệt trạng ngữ với vị ngữ:
Ví dụ:
 Dừng lại ở ngoài cổng, chị nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
 Câu có thể có nhiều vị ngữ, trong đó có vị ngữ rất giống với trạng ngữ	 như ở câu trên. Bộ phận gạch chân trong câu là một trong hai vị ngữ của câu. Bộ phận này biểu thị hành động xuất hiện trước hành động nêu ở vị trí thứ hai trong câu, do đó nó có thể đảo lên trước chủ ngữ.
 Bộ phận gạch chân giống với trạng ngữ ở chỗ có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu.
 Tuy nhiên, vì là vị ngữ nên bộ phận này có thể kết hợp với chủ ngữ để tạo thành câu trọn vẹn. Trong khi đó, trạng ngữ không có vai trò trên. Đây chính là đặc điểm phân biệt hai thành phần này với nhau.
Ví dụ:
 Dừng lại ở ngoài cổng, chị nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
 VN
Vì có thể chuyển thành câu:
 Chị / dừng lại ở ngoài cổng, nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
 CN	 VN
Khác với câu:
 Ở ngoài cổng, chị nâng vạt áo lau những giọt mồ hôi nhễ nhại.
 TN
 + Phân biệt trạng ngữ với chủ ngữ:
Ví dụ:
 Trong thùng / đầy nước.( Đã phân tích ở phần chủ ngữ)
 CN
 Trong thùng, nước đầy.
 TN
 + Phân biệt trạng ngữ với cụm từ của vị ngữ:
Ví dụ:
 Giữa sân đình, anh ta / hăm hở bước tới. 
	TN CN VN
 Anh ta / hăm hở bước tới giữa sân đình. 
 CN VN 
+ Phân biệt trạng ngữ với cụm C - V:
Ví dụ:
 (1) Vì Dế Mèn tập tành đều đặn nên bạn ấy rất khoẻ.
	Cụm C - V	 Cụm C - V
 (2) Vì tôi, cậu ấy bị phê bình.
 TN
 (3) Vì tương lai, chúng ta phấn đấu, 
 TN
 ( 4) Nhờ trận mưa rào nên trời mát mẻ hẳn.
 TN
 Câu (1) là câu có cấu trúc C-V, C-V ( Lớp 5 gọi là câu ghép) nên rất dễ bị nhầm lẫn là câu có trạng ngữ chỉ nguyên nhân ở đầu câu nên giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh.
 Còn các câu (2), (3), (4) là câu có trạng ngữ. 
+ Phân biệt trạng ngữ với một số thành phần khác của câu:
Ví dụ:
 Thuốc, anh ấy không hút.
 Không phải TN
 Câu trên được rút gọn từ câu: Thuốc, anh ấy không hút thuốc. và từ thuốc được gạch chân không phải là trạng ngữ, nó là một thành phần phụ khác của câu, có tác dụng nhấn mạnh chủ đề được nói tới trong câu.
 So sánh các câu sau để thấy rõ hơn các thành phần câu:
Ví dụ:
 (1) Anh ấy / không hút thuốc.
 CN	 VN
 (2) Thuốc, anh ấy / không hút.
 CN VN
 Một phần của VN ở câu (2) đã bị lược bỏ để tránh lặp từ. Câu nguyên vẹn là: Thuốc, anh ấy không hút thuốc. Nên từ thuốc đứng đầu không phải là TN
 (3)Anh ấy, thuốc không hút.
	 VN
Ở câu (3), CN và một phần của VN đã bị lược bỏ để tránh lặp từ. Câu nguyên vẹn là: Anh ấy, thuốc, anh ấy không hút thuốc. Nên từ Anh ấy và từ thuốc đứng đầu không phải là TN
 Từ Thuốc ở câu (2), các từ ngữ: Anh ấy, thuốc đứng ở đầu câu (3) đều không phải là TN hay CN mà chúng là một thành phần phụ khác của câu. (Không đề cập đến)
 Hướng dẫn học sinh phân tích một số ví dụ sau để phân biệt CN, TN với một vài thành phần phụ khác của câu.
Ví dụ: 
 Cà Mau / đất đai màu mỡ.
 CN	 VN
 Ở Cà Mau, đất đai / màu mỡ.
 TN CN	 VN 
 Cà Mau, đất đai màu mỡ.
 Không phải CN hay TN
 Cà Mau, đó là nơi đất đai màu mỡ.
 Không phải CN hay TN
 Trái lại, đây là một việc rất khó.
 Không phải TN
 Nghề nuôi ong, vốn nhỏ nhưng hiệu quả kinh tế lại cao.
 Không phải CN hay TN
 Hoa, bao nhiêu là hoa màu sắc rực rỡ !
 Không phải CN hay TN
 Tóm lại: Trạng ngữ của câu có thể là một từ, một cụm từ hay một cụm 
C-V. Trạng ngữ thường đứng ở đầu câu, cũng có khi đứng ở giữa câu hay cuối câu. Cần chú ý phân biệt trạng ngữ với vị ngữ phụ, với một vế của câu có cấu trúc C-V, C-V và với một số thành phần phụ khác của câu.
KÊT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 Chúng tôi áp dụng sáng kiến này từ năm học 2012-2013. Những năm học trước, nhiều em không xác định được từng thành phần câu, đặt câu không đúng theo yêu cầu. Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến này, chúng tôi thấy kết quả học tập phân môn Luyện từ và câu của các em đã có sự tiến bộ rõ rệt. Đặc biệt, các em đã có những hiểu biết sâu hơn về câu và thành phần câu, nói và viết thành câu, diễn đạt đúng mục đích. Từ đó, học sinh cũng tự tin hơn khi học phân môn Luyện từ và câu, hứng thú, say mê hơn với môn học Tiếng Việt. 
 Kết quả học tập của học sinh trước và sau khi áp dụng sáng kiến như sau: Chúng tôi cho học sinh cùng làm 2 bài tập sau:
Bài 1: Xác định bộ phận chủ ngữ, vị ngữ, và trạng ngữ ( nếu có), của những câu sau:
a, Hôm nay là một ngày đẹp trời.
b, Trong nhà đang có khách.
c, Cách ấy, tôi đã thử rồi.
d, Trên nền trời xanh lơ lửng một cánh diều.
e, Nước mắt đầm đìa, cô ấy đi như chạy.
Bài 2:	 Điền bộ phận câu còn thiếu vào chỗ chấm cho hoàn chỉnh:
a, Trên giá sách..
b, Nơi ấy, tôi.
c, ., chim chóc hót líu lo.
d, Năm người cha mất,..
e, Bên kia cánh rừng,. 
Khảo sát năm học 2011-2012
Lớp
T. Số HS
Điểm
Giỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
4E
35
0
0
3
8.6
5
14.3
27
77.1
 Khảo sát năm học 2012-2013
Lớp
T. Số
Điểm
Giỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
4D
35
11
31.4
18
51.4
6
17.2
0
0
Năm học
Lớp
T. Số
HS
Điểm
Giỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
2012- 2013
4D
35
11
31.4
18
51.4
6
17.2
0
0
2013- 2014
4C
36
21
58.3
12
33.3
3
8.4
0
0
Khảo sát năm học 2013-2014
Lớp
T. Số
Điểm
Giỏi
%
Khá
%
TB
%
Yếu
%
4C
36
21
58.3
12
33.3
3
8.4
0
0
Khảo sát năm học 2014-2015
Lớp
T.Số
Học sinh làm đúng số lượng câu
10
câu
%
9
câu
%
8
câu
%
7
câu
%
6
câu
%
5
câu
%
Dưới
5 câu
%
4G
35
9
25.7
12
34.3
7
20.0
3
8.6
2
5.7
2
5.7
0
0
Từ kết quả trên, chúng tôi thấy, chất lượng học của học sinh nói chung, chất lượng phân môn Luyện từ và câu nói riêng không tự dưng mà có được, trước hết đòi hỏi mỗi giáo viên phải nắm chắc kiến thức về tiếng Việt rất phong phú, đa dạng, phải luôn tìm tòi, học hỏi, để sau đó có phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Kết quả sau hai năm áp dụng sáng kiến trên đã giúp chúng tôi khẳng định điều đó.
 IV.HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ XÃ HỘI DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC
 1. Hiệu quả kinh tế: 
Nếu áp dụng sáng kiến “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn xác định thành phần của câu” vào dạy học, sẽ giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng, cha mẹ các em không phải tốn tiền mua các loại sách tham khảo về môn Tiếng Việt. Mỗi năm học, ước tính toàn tỉnh có khoảng 16 500 học sinh đang học lớp 4, trong đó có khoảng 30% số học sinh sử dụng sách tham khảo môn Tiếng Việt mỗi quyển sách giá khoảng 25 000 đồng thì đã tiết kiệm cho phụ huynh khoảng [25 000 x (16 500 x 30%)] = 123 750 000 đồng / 1 năm
2. Hiệu quả xã hội: 
Việc áp dụng sáng kiến này vào dạy Luyện từ và câu không chỉ nâng cao kỹ năng xác định thành phần câu cho học sinh mà sáng kiến còn như một cẩm nang dạy học đối với giáo viên Tiểu học. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sách tham khảo dạy và học môn Tiếng Việt cũng như phân môn Luyện từ và câu. Nhưng giáo viên và phụ huynh hãy thử làm một phép so sánh về chất lượng nội dung của sáng kiến trên với các sách tham khảo hiện hành để nhận xét, lựa chọn. Chúng tôi tin chắc rằng, với sự mày mò nghiên cứu, học hỏi, với tâm huyết, thực tế nghề nghiệp của mình, sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi sẽ đem lại hiệu quả cao, phần nào giúp cho giáo viên tự tin hơn khi dạy về kiến thức thành phần câu, học sinh sẽ say mê, hứng thú học tập hơn. Qua đó, các em được nâng cao kĩ năng diễn đạt, giao tiếp trong cuộc sống, góp phần giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
V. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
 Chúng tôi đã áp dụng thử nghiệm sáng kiến này trong lớp mình giảng dạy qua ba năm và kết quả mang lại rất đáng khích lệ (như đã tổng hợp ở trên). Kinh nghiệm này đã được chúng tôi hướng dẫn cho các giáo viên dạy khối 4; 5 trong trường. Sau một thời gian áp dụng thì kĩ năng làm bài tập phần Luyện từ và câu của học sinh được nâng lên rõ rệt. Không những thế, khả năng diễn đạt, đặt câu, viết văn của học sinh cũng được nâng cao. 
Từ những kết quả cụ thể đó, chúng tôi có thể tự tin khẳng định rằng khả năng áp dụng sáng kiến kinh nghiệm của chúng tôi vào thực tế giảng dạy là rất lớn. Bất kì một giáo viên Tiểu học nào, ở một vùng miền nào cũng có thể áp dụng được sáng kiến của chúng tôi vào dạy học. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để sáng kiến này của chúng tôi có thể áp dụng rộng rãi hơn. Xin chân thành cảm ơn.
 Ninh Bình, ngày 8 tháng 5 năm 2015
Kết quả thẩm định đánh giá của nhà trường
Đồng tác giả sáng kiến
Phạm Thị Bình 
Phạm Thị Ngân

File đính kèm:

  • docCHINH-THUY-TH DTH-TPNB.doc
Sáng Kiến Liên Quan