Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp “Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” trong dạy học môn Toán Lớp 4

Nội dung mỗi bài học trước thường là cơ sở của bài học sau, việc giới thiệu bài cũng hết sức quan trọng vì nó là một sự chuyển tiếp giữa mảng kiến thức cũ và mảng kiến thức mới. Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu tư, các kiến thức liên quan đến bài giảng chưa biết sử dụng bài trước để giới thiệu dẫn dắt lôi cuốn học sinh một cách hấp dẫn vào bài mới và kết hợp sử dùng đồ dùng dạy học chưa phù hợp.

Ví dụ: Bài nào giáo viên cũng chỉ giới thiệu một cách khô khan

Hôm nay chúng ta học bài: Phép cộng phân số ( tiếp theo ).

 Khai thác nội dung kiến thức giáo viên cũng chưa làm nổi bật được khi nào bắt đầu, khi nào cao trào đỉnh điểm, khi nào kết thúc, Cách đặt ra tình huống có vấn đề, tự nhớ lại kiến thức cũ và vận dụng làm bài, chủ động, sáng tạo trong giờ học.

Ví dụ: Bài: “ So sánh hai phân số khác mẫu số ”. Giáo viên không cho học sinh tự tìm cách làm để cho hai phân số có mẫu số bằng nhau mà yêu cầu luôn học sinh quy đồng rồi so sánh tử số của 2 phân số mới. Hoặc bài: “ Diện tích hình thoi ”, giáo viên chỉ yêu cầu tính diện tích dựa vào hình chữ nhật, chứ không yêu cầu các em ghép hình rồi tự tìm cách tính dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật.

Một số giáo viên ít dành thời gian nghiên cứu, hay chuẩn bị đồ dùng dạy học chưa phù hợp phục vụ cho tiết dạy dẫn tới việc tiếp thu bài trong môn Toán chưa cao.

Bên cạnh đó giáo viên nhận thức về cấu trúc chương trình, những nội dung cơ bản trong môn Toán cũng chưa đầy đủ để vận dụng phương pháp dạy học phù hợp từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải.

 

doc19 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1067 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp “Tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” trong dạy học môn Toán Lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồng rồi cộng tử số, có khi nhân phân số các em cũng quy đồngmặc dù khi học xong bài mới, ở lớp các em vân dụng làm bài rất tốt, nhưng khi làm luyện tập chung lại lộn xộn. tinh thần hợp tác học tập chưa cao nhiều em còn chưa tự tin, học thụ động.
1.2.3. Khảo sát chất lượng đợt 1 kỹ năng môn toán lớp 4A, 4C qua các năm do bản thân tôi phụ trách: 
Năm học
(lớp)
TSHS
GIỎI
KHÁ
TB
YẾU
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2012-2013 (4A)
33
1
3,2
7
19,4
15
48,4
10
29
2013-2014 (4C)
29
4
14,0
6
20,7
14
48,3
5
17,0
Kết quả kiểm tra chất lượng môn toán, 8 tuần đầu lớp 4B năm học 2014 – 2015: (Do bản thân tôi tự kiểm tra để đánh gía chất lượng học sinh lớp 4B)
Tổng số học sinh
Điểm 
( 9 - 10 )
Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm 
( 5 - 6 )
Điểm 
 ( Dưới 5 )
31
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
3
9,7
7
22,6
13
50
8
0
Từ thực trạng chất lượng môn toán của học sinh đã nêu ở trên, trong những năm được phân công giảng dạy ở trường (đặc biệt là năm học này) tôi đã tập trung thực hiện một số biện pháp để góp phần nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh lớp 4 nói chung và rèn ý thức tích cực học tập cho các em học sinh nói riêng.
Xuất phát từ tình hình đó, bản thân tôi luôn luôn trăn trở tìm biện pháp để giải đáp những yêu cầu: Làm thế nào để dạy học luôn phát huy khả năng sáng tạo của học sinh, đánh thức mọi tiềm năng của các em, đồng thời giúp các em có những hành vi phù hợp trước những tình huống, những vấn đề phức tạp trong cuộc sống cộng đồng... Làm thế nào để giáo viên say mê với trong dạy học môn toán và rèn phương pháp dạy học tích cực học tập cho học sinh? Làm thế nào để 
chính quyền địa phương, phụ huynh tích cực ủng hộ giáo viên trong công tác nâng cao chất lượng môn toán? Làm thế nào để học sinh có hứng thú tự giác trong học tập?.. Những kinh nghiệm thực tế và giải pháp về tổ chức dạy học với “phương pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh” nâng cao chất lượng môn toán cho học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học nơi đang công tác, tôi muốn chia sẻ cùng đồng nghiệp. Đó là:
1. 3.Các phương pháp dạy học theo hướng tích cực:
1.3.1. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
Ví dụ trong bài: “ Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ). (Toán 4 trang 127 ).
 Bài toán: “ Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phần băng giấy màu? ” 
Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh.
Hướng dẫn giải như sau: 
+ Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ).
Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số).
Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.
1. 3.2 .Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò.
Ví dụ trong bài: “Phép nhân phân số” (SGK trang 132)
Hình thành phép tính nhân của 2 phân số  và cho học sinh là một vấn đề mới. Nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp và phối hợp với hình vẻ trực quan (như SGK trang 132) để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo.
Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau:
         Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x  = ? (HS nêu: x = )
- Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích?
 (8 là tổng số ô của hình chữ nhật.)
* HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8.
   - 4 và 2 là gì của  các phân số trong phép nhân x  ? ( 4 và 2 là tử số  của  các phân số trong phép nhân  x ).
   - Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m2 ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15 (ô)).
   - Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu  số  của  các phân số trong phép nhân x ).
   - Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( ... ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số).
   - Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.
1. 3.3. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.
Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán:
Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Cô có 30 quả cam, chia thành 3 phần bằng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được bao nhiêu quả cam?”.
Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn An và Mai có tất cả 15.000 đồng, An có nhiều hơn Mai 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”.
-Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: 
+Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của An, phần nhỏ là số tiền của Mai.
+An nhiều hơn Mai 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho An trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho An trước (đặt 5 que tính vào phần lớn).
- Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ).
- Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ).
- Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính )
- Vậy Mai được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ).
- Còn An được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ).
- Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải. 
1.3.4. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. 
Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”.
Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy
 – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: 
+ Tô màu vào băng giấy; Tô màu vào băng giấy
Nhìn vào băng giấy học sinh dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy. Học sinh nêu: + = = .
Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số. 
1.3.5. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh thống nhất kết quả có sự hướng dẫn của giáo viên.
Ví dụ: Dạy bài Nhân với có số hai chữ số (SGK lớp 4 trang 69)
GV nêu vấn đề : Tính 36 x 23 = ?
 	Muốn thực hiện phép tính 36 x 23 ta làm thế nào? Yêu cầu học sinh thực hiện theo nhóm. HS thảo luận, nói vắn tắt ý của mình
GV dựa vào ý của HS để định hướng suy nghĩ :
Đây là phép nhân với số có 2 chữ số, ta chưa học.
Ta mới chỉ học cách nhân với số có một chữ số.
Vậy phải tìm cách quy về phép nhân với số có một chữ số (hay quy về các phép nhân đã học)
	HS tự nghĩ cách nhân theo hướng nêu trên, ghi tắt vào giấy các ý riêng của mình. Sau đó các em bàn bạc trong nhóm nhỏ và thống nhất kết quả.
Sau đó giáo viên yêu cầu các nhóm trình bày kết quả:
	Một số học sinh lên công bố “phát minh” của mình (hoặc nhóm mình) trước cả lớp. Học sinh này được nói và viết tự do trên bảng lớp. Chẳng hạn:
- HS A: Đại diện cho nhóm Sơn ca trình bày trước lớp:
 + Em tách theo phép cộng 23 = 7 + 8 + 8 
	 + Dùng quy tắc nhân một số với một tổng 
 36 x 23 = 36 x (7 + 8 + 8 ) = 36 x 7 + 36 x 8 + 36 x 8
	 Đây toàn là phép nhân với số có một chữ số, biết làm rồi. HS nêu kết quả.
- HS B: Đại diện cho nhóm Sáo sậu trình bày trước lớp:
 	+ Em tách theo phép cộng : 23 = 20 + 3 
	 36 x 23 = 36 x (20 + 3 ) = 36 x 20 + 36 x 3
	 36 x 20 : có dạng phép nhân với số tròn chục : đã học.
 36 x 4 là phép nhân với số có một chữ số đã học. HS nêu kết quả.
36 x 23 = 36 (20 + 3)
 = 36 x 20 + 36 x 3
 = 720 + 108
 = 828
GV tổng kết thảo luận để chốt lại cách làm đúng tuy nhiên cách làm của bạn B nhanh hơn, sau đó nêu cách tính thực tiễn như trong sách giáo khoa. 
GV hướng dẫn đặt tính và tính nhân số có hai chữ số: 36 x 23 = ? (như SGK)
Như vậy, việc phát huy tính tích cực,chủ động sáng tạo học tập của học sinh và hợp tác trong nhóm nhỏ đã giúp các em hăng hái tham gia học tập và phối hợp làm việc có hiệu quả, các em tự trãi nghiệm và đúc rút được kết quả cho bản thân và tích cực hơn trong học tập.Trong hoạt động nhóm nhỏ, mỗi cá nhân phải nổ lực không ỷ lại vào người khác toàn nhóm phải phối hợp với nhau để cuối cùng đạt mục tiêu chung. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường để chuẩn bị cho học sinh thích ứng với đời sống xã hội, trong đó con người sống và làm việc theo theo sự phân công hợp tác với tập thể cộng đồng. Tuy nhiên giáo viên luôn là người hổ trợ động viên học sinh kịp thời khi các em thấy khó khăn trong học tập qua hoạt động hợp tác nhóm để thống nhất kết quả cuối cùng và rút ra kết luận chung.
1. 3.6. Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:
 – Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. 
- Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác:
Ví dụ: Khi dạy bài : “ Tính bằng cách thuận tiện nhất ”
 + + = + ( + ) = + = = 2
Hoặc cho học sinh rút gọn rồi thực hiện cộng phân số cùng mẫu số
 + + = + + = = 2
Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự các phép tính của biểu thức, kết quả đúng nhưng chưa nhanh,chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện.
Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: 
+ Tính chất giao hoán ; tính chất kết hợp của phép nhân..
+ Tính chất nhân một số với một tổng (Hoặc một tổng nhân với một số ).
+ Tính chất nhân một hiệu với một số (Hoặc một số nhân với một hiệu ).
Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia:
Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng.
1. 3.7. Phương pháp kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng học tập để điều chỉnh hoạt động học của trò mà đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng dạy để điều chỉnh hoạt động dạy của thầy. Trong phương pháp dạy học tích cực giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển năng lực tự đánh giá để điều chỉnh cách học và luôn tạo điều kiện để học sinh tham gia đánh giá lẫn nhau. Kỉ năng đánh giá và tự đánh giá, giúp học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhập và góp phần phát triển cộng đồng và rèn luyện khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong các tình huống thực tế.
Trong quá trình giảng dạy, tôi đã áp dụng các phương pháp trên và nhận thấy học sinh lớp tôi hứng thú học tập hơn. Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, tính toán nhanh, chính xác. Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt. Các em học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. 
Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau:
Năm học
Đợt
KSĐK
SLHS
Giỏi
Khá
Trung Bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2012- 2013
(Lớp 4A)
1
33
3
9,1
10
30,3
16
48,5
4
12,1
2
33
7
21,2
15
45,5
9
27,2
2
6,1
3
33
11
33,3
16
48,5
6
18,2
/
/
4
33
13
39,4
17
51,5
3
9,1
2013- 2014
(Lớp 4C)
1
29
4
13,8
6
20,7
14
48,3
5
17,2
2
29
10
34,5
11
37,9
6
20,6
2
6,8
3
29
14
48,3
12
41,4
2
6,8
1
3.5
4
29
14
48,3
12
41,4
3
10,3
/
/
Kết quả kiểm tra môn toán năm học 2014 – 2015:
Tổng số học sinh
Điểm 
( 9 - 10 )
Điểm 
( 7 - 8 )
Điểm 
( 5 - 6 )
Điểm 
 ( Dưới 5 )
31
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
10
9,4
14
31,25
7
53,1
0
0
Qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp trên bản thân tôi đã gặt hái được những kết quả vượt bậc về mọi mặt, trong đó có chất lượng môn toán ngày càng được nâng cao. Các em học sinh luôn tích cực chủ động tham gia học tập, học sinh luôn có ý thức tự học và tham gia tốt các hoạt động của nhà trường. Cụ thể: 
Năm học 2012 - 2013: Lớp 4A có 13 em học sinh giỏi và 17 em đạt học sinh tiến tiến. Năm học: 2013- 2014: Lớp 4C có 14 em học sinh giỏi và 12 em đạt học sinh tiến tiến, có 1 em học sinh tham dự Hội thi trạng nguyên nhỏ tuổi đạt giải ba cấp huyện và 1 em đạt giải Nhất vẽ tranh.
Năm học: 2014- 2015: Lớp 4B có 20 em được khen hoàn thành các môn học và 4 em hoàn thành môn toán.
Việc sử dụng các phương pháp trên đã giúp các em có hứng thú hơn học tập và vận dụng vào làm bài tập tương đối tốt. Mặc dù chưa được hoàn thiện, nhưng cũng chứng tỏ trong các môn học, môn Toán cần có sự đổi mới về phương pháp dạy học, giúp học sinh phát huy cao tính tích cực sáng tạo trong học tập. Góp phần phát triển năng lực tư duy và năng lực thực hành của học sinh để áp dụng vào thực tiễn trong cuộc sống.
III: PHẦN KẾT LUẬN
Ý nghiã thực tiễn của sáng kiến:
Trong công tác giảng dạy, vai trò của người Thầy rất quan trọng, đặc biệt là môn Toán. Người giáo viên chủ yếu cung cấp cho học sinh một cách đầy đủ, chính xác, có hệ thống kiến thức. Ngoài ra, còn thường xuyên rèn luyện cho các em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương pháp, vận dụng kiến thức đã học vào việc làm các bài tập liên hệ với thực tiễn. Vì vậy, môn học này có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Cho nên tôi đã vận dụng những phương pháp này nhằm phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh như sau: 
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán có tính chất chuẩn bị cơ sở việc giải loại toán sắp học.
- Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.
- Khi dạy thực hành luyện tập Giáo viên cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của BGH nhà trường, tổ khối chuyên môn, sự giảng dạy tích cực của giáo viên, học sinh và sự đồng thuận của phụ huynh. Qua những năm kiên trì thực hiện những biện pháp, giải pháp để giúp học sinh phát phát huy tính tích cực trong học tập và thực tế áp dụng các PPDH trên vào hướng dẫn học sinh học tốt môn Toán, tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: 
- Giáo viên phải nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4, nắm vững kiến thức Toán trong SGK; SGV; chuẩn kiến thức kĩ năng. Có đầy đủ đồ dùng dạy và học cho giáo viên và học sinh ở các tiết học. có phần củng cố bằng các trò chơi: “ Trò chơi học Toán ” và chuyển từ kiến thức cũ giúp học sinh khai thác kiến thức mới một cách hấp dẫn, khoa học. Biết tổ chức các PPDH gắn với các bài tập thực hành luyện tập. giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng làm các bài tập một cách chính xác. Đây cũng là cách giúp các em ghi nhớ lâu những qui tắc và vận dụng giải các bài tập đã học để khi lên lớp trên Giáo viên nhắc tới những dạng bài tập đó là các em nhớ và vận dụng làm được ngay. Như vậy sẽ tránh được những em học sinh lên lớp trên mà kiến thức Toán tiểu học bị hỏng.
- Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự linh hoạt trong cách tổ chức các PPDH , giúp học sinh tự tin, giúp các em tự giác biết cách làm bài Toán một cách khoa học, chính xác, sửa chữa những điểm yếu, điểm sai của mình.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục: gia đình – nhà trường – xã hội.
- Riêng đối với bản thân tôi, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải dạy tốt lý thuyết, từ đó mới phát triển được các tư duy, suy luận cho học sinh. Để rèn luyện kĩ năng giải Toán cho học sinh thì trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải lựa chọn các phương pháp dạy tốt. Khi dạy học sinh lớp 4 học Toán, giáo viên phải đặt ra tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải khác nhau.
Trên đây là một số PPDH giúp học sinh học tốt môn Toán trong chương trình Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt thời gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học Toán. Đối với tôi, cách dạy trên đã góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các em học sinh và đó chính là một trong những thành công bước đầu của bản thân tôi trong những năm làm nghề thầy giáo.
3. Những kiến nghị, đề xuất :
* Đối với giáo viên : Thường xuyên học hỏi, cập nhật thông tin, khiêm tốn, không tự bằng lòng thỏa mãn, kiên trì thực hiện mục tiêu muốn có trò giỏi trước hết thầy phải giỏi. Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, cách trình bày bài giảng ; luôn đặt ra yêu cầu cao đối với từng đối tượng học sinh song phải kiên trì và có tình yêu thương đối với con trẻ.
* Đối với nhà trường :
- Thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ tốt cho việc dạy và học. Tăng cường bồi dưỡng đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên đặc biệt là dạy học theo mô hình trường học mới.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình tổ chức dạy học mà bản thân tôi đã đúc rút được. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp của quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_tich_cuc_hoa_hoat_d.doc
Sáng Kiến Liên Quan